Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Thị Tuyết Nga bị xét xử về tội "mua bán trái phép chất ma túy"

Chủ đề   RSS   
  • #265130 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Thị Tuyết Nga bị xét xử về tội "mua bán trái phép chất ma túy"

    Số hiệu

    01/2007/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Thị Tuyết Nga bị xét xử về tội "mua bán trái phép chất ma túy"

    Ngày ban hành

    08/01/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    Ngày 08 tháng 01năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Nguyễn Thị Tuyết Nga, sinh năm 1955; trú tại số nhà 25/29 Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Nguyễn Văn Huynh (đã chết) và bà Phạm Thị Dĩ; Có chồng là Ngô Văn Sáng và có 06 con; bị bắt giam từ ngày 19-01-2002 đến ngày 02-6-2005.

    NHẬN THẤY:

    Vào lúc 20 giờ ngày 17-01-2002 tại trước số nhà 85 đường Trần Đình Xu, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, lực lượng dân phòng phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1 đã bắt giữ ba đối tượng nghi vấn gồm: Lê Phương Quang, Mai Anh Tuấn và Lê Hoàng Vũ và thu giữ của Quang 01 gói nilon chứa chất bột màu trắng. Tại trụ sở Công an phường Nguyễn Cư Trinh, cả ba tên đều khai nhận đã mua gói Hêrôin của một phụ nữ ngồi bán thuốc lá trước số nhà 25 Cống Quỳnh, quận 1, khoảng 50 tuổi, mặc bộ đồ bông màu tím, xanh, vàng và khoác áo gió màu trắng ngà.

    Qua lời khai của Tuấn, Quang và Vũ, 21 giờ cùng ngày Công an phường Nguyễn Cư Trinh đã đến trước số nhà 25 Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh thì chỉ thấy có Nguyễn Thị Tuyết Nga đang ngồi bán thuốc lá, nên đã đưa Nga về Công an phường cùng với tủ thuốc lá của Nga để điều tra làm rõ. Tại biên bản khám xét vào lúc 11 giờ ngày 18-01-2002 Công an phường Nguyễn Cư Trinh xác định: sau khi khám xét người Nga và tủ thuốc lá thì không thu giữ được Hêrôin mà chỉ thu được 770.000 đồng (trong đó có 5 tờ 50.000 đồng, 12 tờ 20.000 đồng còn lại là các loại tiền khác).

    Tại trụ sở công an phường Nguyễn Cư Trinh, Quang, Tuấn và Vũ đã khai chính Nga là người vừa bán thuốc lá và 01 tép Hêrôin cho cả bọn với giá     40.000 đồng. Quang, Tuấn còn khai trước đó đã mua Hêrôin của Nga từ 3 đến 5 lần, lần gần nhất là trước khi bị bắt 01 tuần.

    Nguyễn Thị Tuyết Nga chỉ thừa nhận có bán thuốc lá cho các đối tượng trên chứ không thừa nhận có bán Hêrôin cho Quang, Tuấn và Vũ và cho rằng Quang, Tuấn và Vũ do trong cơn nghiện, đang vật vã nên nhận nhầm người. Theo lời khai của Nga xung quanh nơi Nga bán thuốc lá có rất nhiều người tụ tập mua bán Hêrôin. Trước đó khoảng 3-4 tháng, Nga đã báo cáo tổ trưởng tổ dân phố biết. Ông Phạm Duy Quãng, tổ trưởng tổ dân phố xác nhận là có việc này, ông đã báo Công an phường và bắt giữ một số đối tượng.

    Tại bản Kết luận giám định số 455/BKLGĐ ngày 05-02-2002 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh thì gói bột trắng gửi giám định là Hêrôin có trọng lượng 0,0972 gram.

    Ngày 24-01-2002 Cơ quan điều tra Công an quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Tuyết Nga về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Ngày 17-5-2002 Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Thị Tuyết Nga về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận 1 để đưa vụ án ra xét xử.

    Trong quá trình thụ lý và xét xử vụ án, Tòa án nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã trả hồ sơ 02 lần để điều tra bổ sung về chứng cứ để kết tội Nguyễn Thị Tuyết Nga nhưng Cơ quan điều tra từ chối điều tra với lý do những vấn đề Tòa án nhân dân quận 1 yêu cầu đã có trong hồ sơ vụ án, sau đó đã chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận 1 đưa vụ án ra xét xử.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 794/2002/HSST ngày 12-12-2002, Tòa án nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt Nguyễn Thị Tuyết Nga 3 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

    Ngày 23-12-2002 Nguyễn Thị Tuyết Nga kháng cáo kêu oan.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 54/2003/HSPT ngày 11-3-2003, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định hủy bản án hình sự sơ thẩm số 794/HSST ngày 22-12-2002 của Tòa án nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh điều tra lại với lý do chưa đủ các chứng cứ buộc tội đối với Nguyễn Thị Tuyết Nga.

    Do bị cáo phạm tội nhiều lần nên Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Thị Tuyết Nga về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đưa vụ án ra xét xử.

    Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cũng trả hồ sơ 02 lần để điều tra bổ sung về chứng cứ kết tội Nguyễn Thị Tuyết Nga. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra bổ sung những nội dung mà Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu, sau khi có kết quả điều tra bổ sung Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và tại bản cáo trạng số175/KSĐT-AN ngày 23-8-2005, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Thị Tuyết Nga về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 1804/2005/HSST ngày 21-12-2005, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khoản 2 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên bố Nguyễn Thị Tuyết Nga không phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên trả cho Nguyễn Thị Tuyết Nga 770.000 đồng.

    Tại Quyết định kháng nghị số02/KSXX-HS ngày 03-01-2006, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng tuyên bố Nguyễn Thị Tuyết Nga phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 311/2006/HSPT ngày 27-3-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm      c khoản 2 Điều 248 và điểm b khoản 2 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 1804/2005/HSST ngày 21-12-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.

    Tại Công văn số1342/CV-HS-TA ngày 28-6-2006 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án hình sự hình sự phúc thẩm số 311/2006/HSPT ngày         27-3-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo hướng Nguyễn Thị Tuyết Nga không phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" với lý do không đủ chứng cứ để kết tội Nguyễn Thị Tuyết Nga và Tòa án cấp phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

    Tại Quyết định kháng nghị số34/2006/HS-TK ngày 27-10-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm                  số 311/2006/HSPT ngày 27-3-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân  tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Trong quá trình điều tra, tại phiên toà sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm Nguyễn Thị Tuyết Nga đều không nhận tội. Không ai bắt được quả tang Nguyễn Thị Tuyết Nga thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra bắt giữ Nguyễn Thị Tuyết Nga dựa vào lời khai của các đối tượng Lê Phương Quang, Mai Anh Tuấn và Lê Hoàng Vũ, nhưng lời khai của 3 đối tượng này còn có nhiều mâu thuẫn, song không được cơ quan điều tra làm rõ như: Vũ và Quang khai tép Hêrôin được để trong bao thuốc lá Basto, còn Tuấn thì khai tép Hêrôin được bỏ trong hộp thuốc lá con mèo; Tuấn khai Quang ngồi trên xe hỏi mua 2 điếu thuốc lá và Hêrôin, nhưng Quang lại khai là Quang xuống xe vào gặp Nga mua thuốc lá và Hêrôin; Tuấn và Vũ khai bị 02 dân phòng bắt giữ, còn Quang khai có 04 dân phòng bắt giữ; Vũ khai khi đang chạy xe thì Quang mới mở bao thuốc lá và Vũ thấy gói Hêrôin trong khi 03 đối tượng này đi vào ban đêm, trên xe gắn máy chở 03 người, Quang lại là người ngồi sau cùng. 

    Việc các nhân chứng nhận dạng Nguyễn Thị Tuyết Nga không được tiến hành theo quy định tại Điều 139 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo mô tả của Quang, Tuấn và Vũ, ngay sau đó Công an phường Nguyễn Cư Trinh bắt giữ Nga cùng tủ thuốc lá về Công an phường lúc đó mới lấy lời khai của 03 đối tượng trên về độ tuổi và quần áo của Nga nên lời khai không đảm bảo tính khách quan. 

    Cơ quan điều tra cũng không chứng minh được ngoài Nga ra còn có ai bán thuốc lá ở gần khu vực đó không. Trong quá trình điều tra Nguyễn Thị Tuyết Nga khai tại địa điểm Nga bán thuốc lá còn có các đối tượng khác mua bán ma túy, Nga đã báo cáo tổ dân phố và công an phường bắt giữ một số đối tượng tụ tập mua bán trái phép chất ma túy nơi Nga bán thuốc lá. Lời khai này của Nga đã được ông Phạm Duy Quãng xác nhận là có thật.

    Khi khám xét và thu giữ bao thuốc lá có đựng tép Hêrôin của Quang, Tuấn và Vũ, Cơ quan điều tra đã không tiến hành giám định dấu vân tay trên bao thuốc lá, cũng không tiến hành lấy dấu vân tay của Nga; đồng thời khi khám xét người Nga và tủ thuốc lá cơ quan điều tra không thu giữ được Hêrôin và cũng không ghi rõ trong tủ thuốc lá của Nga có những loại thuốc lá nào, số lượng bao nhiêu, có loại thuốc lá Basto như lời khai của Quang hay không? Trong quá trình điều tra cũng không xem xét chỗ Nga ngồi bán thuốc cách mặt đường bao nhiêu mét, khoảng cách từ chỗ Tuấn và Vũ đang ngồi trên xe đến chỗ Nga ngồi bán thuốc lá là bao nhiêu mét, có nhìn rõ mặt người bán thuốc hay không? Nguyễn Thị Tuyết Nga bị bắt về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", nhưng Cơ quan điều tra chỉ tiến hành khám xét tủ thuốc và người mà không tiến hành khám xét nơi ở của Nga để thu thập thêm chứng cứ. Những thiếu sót trên tuy trong quá trình điều tra, xét xử đã được Viện kiểm sát nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu điều tra bổ sung, nhưng Cơ quan điều tra quận 1 thành phố Hồ Chí Minh không tiến hành điều tra được hoặc có tiến hành điều tra nhưng không đầy đủ. Vì vậy, với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ thì chưa đủ căn cứ kết án Nga về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Tuy nhiên, những vấn đề này đến nay không thể điều tra bổ sung được nữa. Việc Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đã có đầy đủ căn cứ kết án Nguyễn Thị Tuyết Nga, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Nguyễn Thị Tuyết Nga không phạm tội là không đúng, bỏ lọt người, lọt tội, từ đó tuyên bố hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung là không đúng.

    Về thủ tục tố tụng: theo biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 27-3-2006 thì tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát tham dự phiên tòa đã "Rút kháng nghị yêu cầu giữ y án sơ thẩm". Như vậy, theo khoản 2 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự, việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ và bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, tại bản án hình sự phúc thẩm số 311/2006/HSPT ngày  27-3-2006 lại thể hiện đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về việc tuyên bố Nguyễn Thị Tuyết Nga không phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Sự mâu thuẫn này cần phải được Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ để có quyết định đúng theo quy định của pháp luật.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Hủy bản án hình sự phúc thẩm 311/2006/HSPT ngày 27-3-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:

    Trong suốt quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, bị cáo đều không nhận tội, các chứng cứ hiện có chưa đủ căn cứ để kết tội bị cáo.

     

     
    5136 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận