Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Đinh Thị Tâm không phạm tội "Tham ô tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265378 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Đinh Thị Tâm không phạm tội "Tham ô tài sản"

    Số hiệu

    18/2008/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Đinh Thị Tâm không phạm tội "Tham ô tài sản"

    Ngày ban hành

    24/11/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

    ……..

    Ngày 24 tháng 11 tháng 2008, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với: 

    1. Đinh Thị Tâm sinh năm 1974; trú tại tổ 23, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; khi phạm tội là thủ quỹ Xí nghiệp giống cây trồng; con ông Đinh Văn Lộc và bà Nguyễn Thị Son; có chồng và hai con; bị bắt tạm giam từ ngày 11-11-2003 đến ngày 04-02-2005.

    2. Nguyễn Thị Oanh sinh năm 1964; trú tại E.1 khu tập thể Khoa học xã hội, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; khi phạm tội là kế toán Xí nghiệp giống cây trồng; con ông Nguyễn Đình Mãn và bà Mai Thị Tín; có chồng và hai con; bị bắt tạm giam từ ngày 11-11-2003 đến ngày 04-02-2005.

    Nguyên đơn dân sự:

    Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội (trụ sở tại 114 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội).

    Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo xác định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm gồm có:

    1. Ông Mai Minh ảnh sinh năm 1956; trú tại 250A Trần Hưng Đạo, phường 4, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

    2. Ông Phạm Thành Chung sinh năm 1959; trú tại 14/2 Huỳnh Thúc Kháng, phường 3, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

    3. Ông Đoàn Trung Tuyến và bà Trần Thị Hải Quế cùng địa chỉ Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên.

    4. Ông Nguyễn Công Tụng là Giám đốc, Ông Đào Văn Bằng là Phó giám đốc, ông Đỗ Văn Thành là Kế toán trưởng, ông Bùi Mạnh Hà là Phó phòng kế toán, bà Nguyễn Thị Hồng Hải là Phó kế toán trưởng, bà Đỗ Thị Thanh Hường là kế toán tổng hợp và ông Chu Hoài Giang là kế toán thanh toán đều ở Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội.

    5. Ông Nguyễn Minh Nghĩa sinh năm 1971 (Chủ doanh nghiệp vận tải tư nhân Vĩnh Phúc); trú tại tổ 2, khu A3, phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

    6. Ông Đào Văn Bình sinh năm 1955 (Chủ nhiệm HTX vận tải 27/7 Hà Nội); trú tại 68 Hoàng Hoa Thám, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội.

    7. Ông Nguyễn Chiến Trường (Kế toán HTX vận tải 27/7 Hà Nội); trú tại ngõ 189 Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

    8. Ông Vũ Nguyên Sang (Giám đốc Xí nghiệp giống cây trồng, chồng bị cáo Tâm); trú tại 188 phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

    9. Ông Lê Anh Vũ (chồng bị cáo Oanh); trú tại E.1 khu tập thể Khoa học xã hội, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

    10. Bà Nguyễn Việt Anh (Thủ quỹ Doanh nghiệp vận tải tư nhân Vĩnh Phúc); trú tại tổ 48, tập thể Viện khảo sát thiết kế thủy lợi, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

    NHẬN THẤY:

    Ông Nguyễn Công Tụng là Giám đốc và ông Đào Văn Bằng là Phó giám đốc Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội (Công ty XNK Hà Nội). Từ tháng 11-2000 đến năm 2002, ông Nguyễn Công Tụng ký 06 hợp đồng kinh tế bán giống cây trồng cho Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên (Sở NN & PTNT Phú Yên); sau đó, ông Nguyễn Công Tụng giao các hợp đồng này cho đơn vị trực thuộc của Công ty là Xí nghiệp giống cây trồng nông lâm nghiệp (Xí nghiệp) do ông Vũ Nguyên Sang làm Giám đốc thực hiện hợp đồng. Ông Vũ Nguyên Sang phân công Nguyễn Thị Oanh là kế toán và Đinh Thị Tâm là thủ quỹ của Xí nghiệp thực hiện việc nhận giống cây trồng từ cửa khẩu Tân Thanh, tỉnh Lạng Sơn giao cho Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên.

    Từ năm 2000 đến năm 2003, Tâm và Oanh đã ứng tiền từ Công ty XNK Hà Nội với tổng số tiền 50.228.439.000 đồng, và đã sử dụng một phần tiền tạm ứng này để thực hiện 06 hợp đồng nêu trên. Từ ngày 14-12-2000 đến ngày 11-11-2002, Tâm và Oanh đến cửa khẩu Tân Thanh, tỉnh Lạng Sơn nhận giống cây trồng và đã ký 132 hợp đồng thuê 132 xe tải vận chuyển giống cây trồng từ Tân Thanh tỉnh Lạng Sơn vào tỉnh Phú Yên, với tổng cước phí vận chuyển là 1.079.670.000 đồng; trong đó, trả trực tiếp cho các lái xe là 340.270.000 đồng, gửi qua đ­ường b­ưu điện cho cán bộ Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên để trả cho các lái xe là 739.400.000 đồng. Sau đó, Tâm và Oanh không sử dụng 132 hợp đồng vận chuyển này để làm chứng từ quyết toán, mà thỏa thuận với ông Nguyễn Minh Nghĩa (chủ Doanh nghiệp vận tải t­ư nhân ở Phúc Yên, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) lập hợp đồng vận chuyển khống số 67/HĐ ngày 02-10-2000, kèm biên bản thanh lý hợp đồng trình ông Đào Văn Bằng ký. Sau khi ký hợp đồng, ông Nghĩa xuất khống 02 hóa đơn thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền cước phí vận chuyển là 168.000.000 đồng. Với thủ đoạn t­ương tự, năm 2001 Tâm và Oanh thỏa thuận với ông Đào Văn Bình là Chủ nhiệm và Nguyễn Chiến Trư­ờng là Kế toán tr­ưởng Hợp tác xã vận tải 27/7 Hà Nội (HTX Hà Nội) lập hợp đồng số 84/HĐ ngày 02-4-2001 và phụ lục hợp đồng số 84/PLHĐ ngày 01-01-2002, kèm 02 biên bản thanh lý hợp đồng trình ông Đào Văn Bằng ký. Sau khi ký hợp đồng, ông Bình đã xuất khống 11 hóa đơn thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền c­ước phí vận chuyển là 2.117.056.200 đồng. Tổng số 13 hóa đơn khống với số tiền chi phí là 2.285.056.200 đồng, Tâm và Oanh đã ghi số tiền này vào bảng kê chi phí trình Giám đốc Xí nghiệp duyệt và Xí nghiệp đã đề nghị Công ty XNK Hà Nội thanh toán theo bảng kê do Tâm và Oanh lập. Công ty XNK Hà Nội đã chấp nhận và thanh toán số tiền này theo đề nghị của Xí nghiệp vào các tháng 12-2000, tháng 10-2001 và tháng 1-2003. Số tiền chênh lệch so với số tiền thực chi là 1.205.386.200 đồng (2.285.056.200 - 1.079.670.000); trong số tiền chênh lệch này, Tâm và Oanh đã chi 142.230.640 đồng (gồm cước chuyển tiền qua b­ưu điện, thuế VAT và tiền dịch vụ hoa hồng hóa đơn), còn lại 1.063.155.560 đồng (1.205.386.200 - 142.230.640) Tâm và Oanh chiếm đoạt.

    Ngoài ra, trong vụ án này còn có các hành vi được thực hiện tại tỉnh Phú Yên như sau:

    Năm 2001 và năm 2002, Sở NN & PTNT Phú Yên do ông Mai Minh Ảnh làm Giám đốc được Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên cấp tiền để mua giống cây trồng sản lượng cao hỗ trợ cho nông dân nhằm khắc phục thiên tai. Trong quá trình thực hiện ông Ảnh đã chỉ đạo không đúng với chủ trương của tỉnh như: ông Ảnh đã chỉ đạo cho Phạm Thành Chung (cán bộ kỹ thuật thuộc Sở NN & PTNT Phú Yên) giao nhận sai so với hợp đồng mua giống cây trồng của Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội là không cân trọng lượng, không kiểm tra chất lượng, không khấu trừ số lượng giống mía hư, dẫn đến việc thiếu về số lượng và không đạt về chất lượng gây thiệt hại 410.070.173 đồng. Với những sai phạm này, tại các Quyết định khởi tố bị can số 65 ngày 10-11-2003 và số 28 ngày 20-4-2004, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên đã khởi tố đối với Mai Minh Ảnh và Phạm Thành Chung về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tại Bản kết luận điều tra số 05/PC15 ngày 26-10-2004, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên đã đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố Mai Minh Ảnh và Phạm Thành Chung về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, ngày 03-11-2005, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã có quyết định số 20 và số 21 đình chỉ điều tra đối với Mai Minh Ảnh và Phạm Thành Chung, với lý do hậu quả đã được ngăn chặn.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2007/HSST ngày 15-01-2007, Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên căn cứ vào khoản 2 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên bố các bị cáo Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh không phạm tội “Tham ô tài sản". Căn cứ khoản 4 Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự, trả cho Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh mỗi người 500.000.000 đồng tại biên bản thu tiền số 04403 ngày 03-02-2005 của Phòng thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên, trả cho ông Vũ Nguyên Sang và ông Lê Anh Vũ mỗi người 15.000.000 đồng, trả cho các ông Đào Văn Bằng 8.000.000 đồng và Chu Hoài Giang 4.000.000 đồng, trả cho Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội 28.419.000 đồng.

    Tại Quyết định số44/VKS-P1 ngày 25-01-2007, Viện trư­ởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 07/2007/HSST ngày 15-01-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên; đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng hủy bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo h­ướng các bị cáo Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh phạm tội “Tham ô tài sản”.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 616/2007/HSPT ngày 05-7-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên bản án hình sự­ sơ thẩm đối với Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh.

    Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số10/2008/HS-TK ngày 02-7-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm số 616/2007/HSPT ngày 05-7-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 07/2007/HSST ngày 15-01-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên, để điều tra lại.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Trong quá trình điều tra ban đầu, Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh đều khai rằng do có sự chỉ đạo của ông Nguyễn Công Tụng nên đã nâng khống cước phí vận chuyển lấy tiền chênh lệch 1.063.155.560 đồng của Công ty xuất nhập khẩu và xây dựng nông lâm nghiệp Hà Nội để chia nhau. Tâm giữ tiền và chia cho 18 người (danh sách những người nhận tiền được Tâm và Oanh ghi trong sổ cá nhân, những quyển sổ này được người nhà của Tâm và Oanh giao nộp cho Cơ quan điều tra sau khi có quyết định khởi tố bị can đối với Tâm và Oanh). Tuy nhiên, Cơ quan điều tra kết luận không có cơ sở để xác định ông Tụng đã chỉ đạo việc này (ông Tụng không thừa nhận, không có văn bản nào thể hiện có sự chỉ đạo của ông Tụng). Những người mà Tâm và Oanh khai được chia tiền cũng không ai thừa nhận đã được chia số tiền này từ Tâm và Oanh. Riêng ông Đào Văn Bằng là Phó giám đốc và ông Chu Hoài Giang là kế toán Công ty XNK Hà Nội thừa nhận vào các dịp ngày lễ, ngày tết của năm 2001 và năm 2002 được Tâm và Oanh đưa tiền (tổng số tiền ông Bằng đã nhận là 8.000.000 đồng, ông Chu Hoài Giang đã nhận là 4.000.000 đồng), nhưng không biết nguồn tiền này từ đâu. Như vậy, lời khai của Tâm và Oanh còn có mâu thuẫn với lời khai của những người mà Tâm và Oanh khai đã đưa tiền cho họ, nhưng Cơ quan điều tra chưa đối chất để xác định rõ sự thật về những lời khai này là thiếu sót, cần phải điều tra bổ sung và đối chất làm rõ để bảo đảm tính khách quan trong vụ án.

    Sau khi nhận Bản kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên thì Tâm và Oanh đều thay đổi lời khai và cho rằng Tâm và Oanh không chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.063.155.560 đồng, mà số tiền này các bị cáo đã sử dụng mua giống cây bán cho Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên, hiện Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên còn nợ Xí nghiệp 669.000.000 đồng; số tiền còn lại khoảng 570.000.000 đồng Xí nghiệp đã nộp 6% nghĩa vụ về Công ty XNK Hà Nội. Tuy nhiên, theo các tài liệu điều tra bổ sung thì số tiền 669.000.000 đồng Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên còn nợ Công ty XNK Hà Nội (có thể hiện trên sổ sách kế toán của Công ty XNK Hà Nội). Vậy thực chất số tiền này là của Công ty XNK Hà Nội hay là của Xí nghiệp nhưng được đứng tên của Công ty XNK Hà Nội. Vấn đề này cần được điều tra làm rõ. Mặt khác, tại phiên tòa ông Đoàn Trung Tuyến (Trưởng phòng kế toán tài vụ Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên) khẳng định Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên không nợ Công ty XNK Hà Nội 669.000.000 đồng, không có hóa đơn số tiền nợ này và cũng không treo khoản tiền này vào bất cứ tài khoản nào; mâu thuẫn này cũng chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ. Về khoản tiền 570.000.000 đồng, Kế toán trưởng và Kế toán tổng hợp của Công ty XNK Hà Nội đều khai Xí nghiệp không nộp khoản tiền này cho Công ty và trong sổ sách kế toán của Công ty XNK Hà Nội cũng không thể hiện Xí nghiệp đã nộp khoản tiền này. Tuy nhiên, vấn đề này cũng chưa được tiến hành kiểm tra cụ thể.

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào số tiền của khách hàng đã chuyển trả vào tài khoản của Công ty XNK Hà Nội từ năm 2000 đến năm 2003 (53.070.618.560 đồng) cao hơn số tiền Xí nghiệp đã ứng (50.028.493.080 đồng) để kết luận Công ty XNK Hà Nội không bị thiệt hại. Xét thấy số tiền 53.070.618.560 đồng mà khách hàng đã chuyển trả vào tài khoản của Công ty XNK Hà Nội và số tiền Xí nghiệp đã ứng 50.028.493.080 đồng của Công ty XNK Hà Nội là bao gồm của nhiều hợp đồng khác nhau, có những hợp đồng đã được thực hiện trước thời điểm Công ty XNK Hà Nội ký với Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên. Khoản tiền chênh lệch 1.063.155.560 đồng Công ty XNK Hà Nội đã thanh toán cho Xí nghiệp (được thể hiện trong sổ sách kế toán của Công ty XNK Hà Nội). Tuy nhiên, Cơ quan điều tra cũng chưa bóc tách và làm rõ trong 6 hợp đồng mà Công ty XNK Hà Nội đã ký với Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên để xác định thiệt hại cụ thể trong những hợp đồng này là bao nhiêu. Cần có ý kiến bằng văn bản của Công ty XNK Hà Nội về thiệt hại để xác định tư cách tham gia tố tụng của cơ quan này.

    Với sự phân tích nêu trên cho thấy một số tình tiết của vụ án chưa được điều tra đầy đủ và có những mâu thuẫn chưa được các Cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ trong việc chứng minh số tiền chênh lệch do nâng khống cước phí vận chuyển hiện do những ai chiếm hữu. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại vụ án, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào những số liệu chưa được điều tra, xác minh đầy đủ để cho rằng Công ty XNK Hà Nội chưa bị thiệt hại và tuyên bố Đinh Thị Tâm và Nguyễn Thị Oanh không phạm tội “Tham ô tài sản” là chưa bảo đảm căn cứ kết luận về vụ án.

    Trong vụ án này Cơ quan điều tra cũng chưa làm rõ có hành vi giúp sức của ông Nguyễn Minh Nghĩa (Chủ doanh nghiệp tư nhân Vĩnh Phúc) và ông Đào Văn Bình (Chủ nhiệm HTX vận tải 27/7 Hà Nội) trong việc ký khống hợp đồng vận chuyển với Công ty XNK Hà Nội. Vì vậy, cần điều tra làm rõ để xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, cũng cần kiến nghị với Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đình chỉ điều tra đối với Mai Minh Ảnh và Phạm Thành Chung để tránh bỏ lọt người phạm tội.

    Kiến nghị với Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra Bộ Công an tiến hành điều tra nhằm bảo đảm tính khách quan.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285; Điều 287 và Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 616/2007/HSPT ngày 05-7-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 07/2007/HSST ngày 15-01-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Một số tình tiết của vụ án chưa được điều tra đầy đủ và có những mâu thuẫn chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ, do đó cần hủy các bản án để điều tra lại theo thủ tục chung.

     
    8365 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận