Quyết định giám đốc thẩm về vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất"

Chủ đề   RSS   
  • #265447 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất"

    Số hiệu

    06/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất"

    Ngày ban hành

    03/03/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 03-03-2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm, xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn : Bà Trần Thị Lang, sinh năm 1930;

    Bà Lang uỷ quyền cho con là anh Nguyễn Thanh Thạnh, sinh năm 1961; cùng trú tại: 302/4 Hai Bà Trưng, phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (theo hợp đồng uỷ quyền đề ngày 05-8-2005).

    Bị đơn: Bà Trần Thị Trình, sinh năm 1944;

    Bà Trình uỷ quyền cho con là chị Lê Thị Mận, sính năm 1971; cùng trú tại: thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng (theo giấy uỷ quyền đề ngày 15-9-2005).

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:

    1 Chị Nguyễn Thị Thanh Yên,sinh năm 1956

    2. Anh Nguyễn Thanh Hùng, sinh năm 1956

    3 .Anh Nguyễn Thath Dũng,sinh năm 1958

    4. Anh Nguyễn Thach Cường, sinh năm 1960

    5. Anh Nguyễn Thạnh Thạnh, sinh năm 1961

    6. Am Nguyễn Thanh Lợi, sinh năm 1963

    7 . Anh Nguyễn Thanh Thắng, sinh năm 1967

    8. Anh Nguyễn Thanh Phong, sinh năm 1970

    9. Anh Nguyễn Thanh Quốc, sinh năm 1973

    10. Chị Nguyễn Thanh Tâm, sinh năm 1974

    Chị Yên, anh Hùng, anh Dũng, anh Cường, anh Phong, anh Quốc, chị Tâm cùng uỷ quyền cho anh Nguyễn Thanh Thạnh trú tại 302/4 Hai Bà Trưng , phường Tân Định , quận 1, thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng ủy quyền đề ngày 11-01 -2006

    11. Anh Lê Tấn Liêm, sinh năm 1969

    12. Chị Lê Thị Mận, sinh năm 1971

    Cùng trú tại thông Giáng Nam 2, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 04-6-2005 và sản tự khai đề ngày 06-9-2005, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn (anh Nguyễn Thanh Thạnh) trình bày thì: Lô đất có diện tích 2.132m2 tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng là của ông Nguyễn Văn Tánh, bà Trần Thị Lang mua lại của vợ chồng ông Tôn Thất Uẩn, bị Trần Thị Cương vào năm 1961. Năm 1962, ông Tánh xây dựng ngôi nhà trên diện tích đất trên để cho cụ Trần Lang, cụ Lê Thị Phụng (ông, bà Ngoại của anh) và bà Trần Thị Trinh (em của bà Trần Thị Lang) ở. Còn gia đình anh sinh sống ở thành phố Đà Nẵng nhưng vẫn đi về chăm sóc cụ Lang, cụ Phụng. Sau năm 1975 , gia đình anh chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, nhà và đất nêu trên giao cho cụ Lang, cụ Phụng trực tiếp quản lý, sử dụng.

    Năm 1993, bà Trinh đã làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không hỏi ý kiến cha, mẹ anh. Năm 1998, cha, mẹ anh đã gặp bà Trinh để giải quyết sự việc, bà Trinh đã nhận sai sót nên nghĩ anh chị em, cha, mẹ anh đã đồng ý cắt cho bà Trinh 1/2 diện tích đất nêu trên. Tháng 5/2005 , mẹ anh đã gặp bà Trinh để yêu cầu cắt đất theo thoả thuận những bà Trinh không đồng ý. Hiện nay, do mở đường nên diện tích đất của cha, mẹ anh chỉ còn lại 1.400 m2 nên anh yêu cầu bà Trinh trả lại 1/2 diện tích đất nêu trên (khoảng 700m2)

    Theo bị đơn bà Trần Thị Trinh trình bày:

    Bà xây dựng gia đình vào năm 1961 và sống cùng với cụ Trần Lang, cụ Lê Thị Phụng (cha, mẹ bà) tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng. Năm 1965, do nhà quá xuống cấp nên gia đình bà xã xây dựng nhà kiên cố với cấu trúc mái lợp ngói, nền xi măng. Năm 1970, ông Lê Tấn Lạc (chồng bà) chết, bà cùng với 3 con sống tại căn nhà này cho đến nay.

    Từ sau năm 1975 , Hợp tác xã yêu cầu kê khai đất đai, bà đã làm đúng theo pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Năm 1993, thực hiện Nghị định 64/CP của Chính Phủ, bà đã kê khai và dược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trích lục sổ nghiệp chủ nhà ở số 03/HP/TLNC ngày 30-11- 1993 đứng tên bà. Nay bà Lang khởi kiện đòi trả lại 700m2 đất, bà không đồng ý với yêu cầu của bà Lang.

    Đại diện theo ủy quyền của của bị đơn (chị Lê Thị Mận) trình bày:

    Diện tích đất mà bà Lang đang tranh chấp là bà Trinh, ông Lạc (cha, mẹ chị) mua lại của vợ chồng ông Tôn Thất Uẩn, bà Trần Thị Cương (giá bao nhiêu không rõ); vì cha chị trốn lính nên không thể đứng tên mía rất, do vậy cha, mẹ chị đã nhờ ông Tánh, bà Lang đứng tên mua đất. Sau khi cha chị chết, mẹ chị đã trả tiền nợ đất bằng xe Honda. Vì cha chết đột ngột nên không để lại giấy tờ gì. Chị xác định nhà và đát đang tranh chấp là của cha, mẹ chị. Nay, bà Lang yêu cầu mẹ chị cắt trả đất chị không đồng ý, diện tích đất hiện nay còn khoảng 1.500m2.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 29/12/2006, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của bà Lang đối với bà Trinh, cụ thể:

    I/ Công nhận bà Lang và các con gồm chị Nguyễn Thị Thanh Yên, anh Nguyễn Thanh Hùng, anh Nguyễn Thanh Dũng, anh Nguyễn Thanh Cường, anh Nguyễn Thanh Thạnh, anh Nguyễn Thanh Thắng, anh Nguyễn Thanh Phong, anh Nguyễn Thanh Quốc được trọn quyền sử dụng lô đất có điện tích 534m2 và được sở hữu nhà, vật kiến trúc xây dựng trên diện tích đất nói trên tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.

    Trị giá nhà và đất bà Lang và các con được sở hữu, sử dụng nói trên là 649.508.390 đồng.

    II/ Buộc bà Trinh phải có nghĩa vụ giao trả toàn bộ nhà vật kiến trúc và quyền sử dụng lô đất có diện tích 534m2 tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng cho bà Lang và các con sở hữu, sử dụng.

    Nhà và quyền sử dụng đất bà Trinh có nghĩa vụ giao trả cho bà Lang và các con nói trên được kèm theo sơ đồ và có tứ cận như sau:

    - Phía Bắc: giáp đất nhà bà Trinh, anh Lê Tấn Liêm, chị Lê Thị Mận được sử dụng dài 25,9m.

    -  Phía Nam: giáp đất nhà bà Trinh, anh Liêm, chị Mận dài 25,7m.

    -  Phía Đông: giáp Quốc lộ 1A dài 20,65m.

    -  Phía Tây: giáp bờ tường dài 20,65m.

    III/ Công nhận bà Trinh và các con là anh Liêm, chị Mận được trọn quyền sử đụng phần diện tích đất còn lại là 889m2 tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.

    Trị giá quyền sử dụng đất bà Trinh và các con được nhận nói trên là 675.640.000 đồng . Phần đất bà Trinh và các con được công nhận có sơ đồ kèm theo.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 08-01-2007 bà Lang có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Toà phúc thẩm xử giao cho bà Trinh được giữ lại một phần đất (có nhà anh Lê Tấn Liêm) và sở hữu toàn bộ vật kiến trúc trên đất: 22,2m x 25m = 555m2 còn bà đề nghị được nhận lại toàn bộ vật kiến trúc trên phần đất 31,6m x 25m = 790m2.

     Ngày 10-01-2007, chị Lê Thị Mận (người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn) kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.

    Tại bản án phúc thẩm số 60/2007/DSPT ngày 06-6-2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định sửa bán án sơ thẩm, như sau:

     - Buộc bà Trần Thị Trinh phố giao trả cho bà Trầm Thị Lang và các con của bà Lang lô đất có diện tích 534m2 (dài 25,90m; rộng 20,65m) cùng toàn bộ nhà, vật kiến trúc trên đất tại thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, Đà Nẵng có tứ cận: Đông giáp Quốc lộ 1A, Tây giúp nhà ông Huy, Nam giúp nhà chị Mận, Bắc giáp nhà anh Liêm.

    - Buộc bà Trần Thị Trinh phải giao trả cho bà Tên Thị Lang và các con của bà Lang lô đất có diện tích 205,6 m2 (dài 25,70m, rộng 8m) tạị thôn Giáng Nam 2, xã Hoà Phước, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, có tứ cận: Đông giáp Quốc lộ 1A, Tây giáp nhà ông Huy, Nam giáp nhà ông Sao, Bắc giáp nhà chị Mận; đồng thời buộc chị Mận phải tháo dỡ một số vật che chắn và kiến trúc nhỏ trên đất này để trả cho bà Lang.

    - Bà Trần Thị Lang và các con của bà Lang phai trả lại Cho bà Trần Thị Trinh số tiền 203.989.600 đồng là phần giá trị nhà mà bà Trinh đã xây dựng thêm.

     Bà Trần Thị Trinh và các con bà Trinh được tiếp tục quản lý và sử dụng phần đất còn lại 707m2, trong áo có 234m2 mà chị Mật đã sử dụng xây nhà và có 473m2 mà anh Liêm đã sử dụng xây nhà .

    Kiến nghị với UBND huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng có trách nhiệm thu lại sổ nghiệp chủ nhà và điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đã cấp cho bà Trinh tại thôn Giáng Nam 2, xử Hoà Phước, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng cho đúng với thực tế phần đất được sử dụng.

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Trinh khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định số239/2009/KN-DS ngày 01-6-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 29-12-2006 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm lại với nhận định:

    Về nguồn gốc đất tranh chấp: Căn cứ vào “ Văn khế bán đoạn đất” lập ngày 10-11-1961 có xác nhận của chính quyền cũ, giấy biên nhận thể hiện bà Trần Thị Lang nộp lệ phí vào năm 1961 và lời khai của các nhân chứng là ông Tôn Thất Sô (con ông Tôn Thất Uẩn, bà Trần Thị Cương - chủ cũ của phần để tranh chấp ông Trần Lang, ông Trần Ngọc Tấn (họ hàng và bà Trần Thị Lang, bà Trần Thị Trinh) và ông Trần Thanh Cường có cơ sở để xác định nguồn gốc đất hiện các tên đang tranh chấp là của vợ chồng bà Trần Thị Lang, ông Nguyễn Văn Tánh nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Uẩn, và Cương vào năm 1961. Đại diện bị đơn (chị Lê Thị Mận - con bà Trần Thị Trinh) cho rằng bà Trinh , ông Lạc (cha, mẹ chị) đã nhờ bà Lang đứng tên mua hộ đất nhưng không xuất trình được tài liệu chứng minh.

    Về căn nhà hiện các tên đang tranh chấp Bà Lang và các nhân chứng (ông Sô, ông Lang, ông Tấn) cho rằng sau khi mua đất năm 1961, năm 1962 vợ chồng bà Lang đã xây dựng một căn nhà để cho cha, mẹ bà Lang là bà Trinh ở, hiện căn nhà này vẫn còn gần như nguyên vẹn và bà Trinh chỉ cơi nới thêm phần diện tích phía sau. Chị Mận thì không thừa nhận và cho rằng căn nhà này do cha, mẹ chị xây dựng vào năm 1965. Trong khi đó tại "Trích lục Sổ nghiệp chủ nhà ở" ngày 30-11-1993 của Uỷ ban nhân do huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng cấp cho bà Trinh có nội dung "Theo vận thực 3 nhân chứng lập lại địa phương ngày 16-3-1993 được Uỷ ban nhân dân xã Hoà Phước xác thực ngôi nhà do ông Lê Tấn Lạc,, bà Trần Thị Trinh tạo dựng vào năm 1965, đến năm 1970 cải tạo, sửa chữa....Căn cứ vào hồ sơ trên, nay Uỷ ban nhân dân huyện Hoà Vang công nhận quyền nghiệp chủ nhà ở cho bà Trần Thị Trinh được đứng tên chủ sở hồ ngôi nhà ". Như vậy, với các tài liệu này thì chưa đủ cơ sở xác định căn nhà thuộc quyền sở hữu của bà Lang hay bà Trinh. Toà án các cấp cũng chưa xác minh, làm rõ việc cấp Sổ nghiệp chủ nhà cho bà Trinh là hợp pháp hay không hợp pháp, mà chỉ căn cứ vào lời khai của bà Lang và các nhân chứng để chấp nhận yêu cầu của bà Lang và buộc gia đình bà Trinh trả lại nhà, đã là chưa đủ căn cứ.

    Thực tế, bà Trinh đã ở nhà, đất này từ năm 1962 đến khi tranh chấp là đã quá 30 năm. Do đó, cần phải xác minh làm rõ việc bà Trinh ở nhờ nhà, đất hay là chiếm hữu ngay tình.

    Trường hợp là chiêm hữu ngay tình thì việc chiêm hữu tài sản này gồm bà Trinh và cha, mẹ bà Trinh, bà Lang. Nếu cha, mẹ bà Trinh bà Lang chết trước năm 1990 thì phần nhà, đất nào bà Trinh quản lý, sử dụng riêng đến năm 1993 là tài sản của bà Trinh. Phần nhà đất nào bà Trinh quản lý sử dụng chung với cha, mẹ của bà Trinh, bà Lang thì phải xem xét, giải quyết lại. Trong hồ sơ vụ án chưa làm rõ việc quản lý nhà, đất của bà Trinh và của cha, mẹ bà Trinh, bà Lang. Do đó. cồn phải xác minh làm rõ việc quản lý nhà, đất của và Trinh và cha, mẹ bà Trinh, bà Lang là quản lý chung hay bà Trinh quản lý riêng và cha mẹ bà Trinh, bà Lang chết năm nào để xác định tài sản là của bà Trinh hay của chung với cha, mẹ.

    Về áp dụng pháp luật cũng cần xem xét có phải là trường hợp áp dụng Điều 249- Bộ luật dân sự năm 2005 (từ bỏ quyền sở hữu) hay không?

    Quá trình giải quyết, Toà án các cấp chưa làm rõ những vân đề nêu trên mà đã quyết định buộc bà Trinh và các con và Trinh trả lại nhà, đất cho bà Lang là chưa đủ căn cứ.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 29-12-2006 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Căn cứ vào "Văn khế bán đoạn đất" lập ngày 10-11-1961 có xác nhận của chính quyền cũ, giấy biên nhận thể hiện bà Trần Thị Lang nộp lệ phí vào năm 1961 và lời khai của các nhân chứng là ông Tôn Thất Sô (con ông Tôn Thất Uẩn, bà Trần Thị Cương - chủ cũ của phần đất tranh chấp), ông Trần Lang, ông Trần Ngọc Tấn (họ hàng với bà Trần Thị Lang, bà Trần Thị Trinh) và ông Trần Thanh Cường thì nguồn gốc đất hiện các bên đang tranh chấp là của vợ chồng bà Trần Thị Lang, ông Nguyễn Văn Trình nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Uẩn, bà Cương vào năm 1961. Đại diện bị đơn ( chị Lê Thị Mận – con bà Trần Thị Trinh) cho rằng bà Trinh, ông Lạc (cha, mẹ chị) đã nhờ bà Lang đứng tên mua hộ đất nhưng không xuất trình dược tài liệu chứng minh.

    Bà Trần Thị Lang và các nhân chứng là ông Sô, ông Lang, ông Tấn cho rằng sau khi mua đất, năm 1962 vợ chồng bà Lang đã xây dựng một căn nhà để cho cha, mẹ bà Lang và bà Trinh ở, hiện căn nhà này vân còn gần như nguyên vẹn và bà Trinh chỉ cơi nới thêm phần diện tích phía sau. Trong khi đó chì Mận không thừa nhận và cho rằng căn nhà này do cha, mẹ chị xây dựng vào năm 1965. Tại “Trích lục Sổ nghiệp chủ nhà ở”ngày 30-11-1993 của Ủy ban nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng cấp cho bà Trinh có nội dung “Theo nhận thực 3 nhân chứng lập tại địa phương ngày 16-3-l993 được Uỷ ban nhân dân xã Hoà Phước xác thực ngôi nhà do ông Lê Tấn Lạc, bà Trần Thị Trinh tạo dựng vào năm 1965, đến năm 1970 cải tạo, sửa chữa....Căn cứ vào hồ sơ trên, nay Uỷ ban nhân dân huyện Hoà Vang công nhận quyền nghiệp chủ nhà ở cho bà Trần Thị Trinh được đứng tên chủ sở hữu ngôi nhà . Như vậy, với các tài liệu này thì chưa đủ cơ sở để Xác định căn nhà thuộc quyền sở hữu của bà Lang hay bà Trinh. Toà án các cấp cũng chưa xác minh, làm rõ việc cấp Sổ nghiệp chủ nhà cho bà Trinh là hợp pháp hay không hợp pháp và cũng chưa xác minh làm rõ người xây dựng nhà, mà chỉ căn cứ vào lời khai của bà Lang và một số nhân chứng để chấp nhận yêu cầu của bà Lang và buộc gia đình bà Trinh trả lại nhà, đất là chưa đủ căn cứ.

    Trong thực tế hộ gia đình bà Trinh đã ở nhà, đất này từ năm 1961 đến năm 1965 thì sửa chữa nhà. Sau khi giải phóng, bà Lang không kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, còn bà Trinh kê khai, đăng ký được cấp sổ nghiệp chủ nhà và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, nguồn gốc đất là của vợ chồng bà Lang mua, sau đó cho cha, mẹ của bà Lang và bà Trinh ở và bà Trinh có kê khai đăng ký được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sổ nghiệp chủ nhà. Việc gia đình bà Trinh đã quản lý, sử dụng đến khi có tranh chấp là trên 30 năm nhưng cho đến ai có tranh chấp bà Lang không khiếu nại. Do đó, cần phải xác minh làm rõ việc bà Trinh ở nhờ nhà, đất hay là chiếm hữu ngay tình và được xác lập sở hữu theo quy định của pháp luật. Trường hợp là chiếm hữu ngay tình thì việc chiếm hữu tài sản này gồm cả bà Trinh và cha, mẹ của bà Trinh, bà Lang. Do đó, cần phải xác minh làm rõ việc quản lý nhà, đất của bà Trinh và cha, mẹ bà Trinh, bà Lang là quản lý chung hay bà Trinh quản lý riêng, nếu riêng thì cha, mẹ của bà Trinh, bà Lang quản lý phần nào? bà Trinh quản lý phần nào? thực trạng trên đất lúc bà Trinh và cha, mẹ của bà Trinh, bà Lang sử dụng có nhà hay không có nhà? Thời điểm bà Trinh lấy chồng và thời điểm cha, mẹ của bà Trinh, bà Lang chết? Từ đó mới có cơ sở xác định phần tài sản cụ thể của mỗi người.

    Toà án các cấp chưa xem xét toàn diện các vấn đề nêu trên mà đã quyết định buộc bà Trinh và các con bà Trinh trả lại nhà, đất cho bà Lang là chưa đủ căn cứ Mặt khác, khi xác định nhà, đất của bà Lang thì Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm cũng chưa xem xét nhu cầu thực tế về sử dụng nhà, đất để giải quyết đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 60/2007/DSPT ngày 06-6-2007 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án dân sự sơ thẩm 07/2006/DSS ngày 29-12-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Lang với bị đơn là bà Trần Thị Trinh; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là các anh, chị Nguyễn Thị Thanh Yên, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Thanh Cường, Nguyễn Thanh Thạnh, Nguyễn Thanh Lợi, Nguyễn Thanh Thắng, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Thanh Quốc, Nguyễn Thanh Tâm, Lê Tấn Liêm, Lê Thị Mận.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     
    4491 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận