Quyết định giám đốc thẩm số 31/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật”

Chủ đề   RSS   
  • #264973 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 31/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật”

    Số hiệu

    31/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số31/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật”

    Ngày ban hành

    06/12/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số31/2005/DS-GĐT

    NGÀY 06-12-2005 Về Vụ ÁN “YÊU CầU HUỷ HÔN NHÂN 
    TRÁI PHÁP LUậT”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 06 tháng 12 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên Toà Giám đốc thẩm xét xử việc yêu cầu huỷ bỏ việc kết hôn giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: anh Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1960;

    Trú tại: Nhà số 226, đường Thánh Thiên, phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

    Bị đơn: chị Phạm Thị Lộc, sinh năm 1958;

    Trú tại: Nhà số 4, ngõ 2, đường Huyền Quang, phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

    Nhận thấy:

    Ngày 10-5-2000, anh Nguyễn Văn Hùng khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn giữa anh và chị Phạm Thị Lộc. Theo các lời khai của anh Hùng trong quá trình giải quyết vụ án thì: Anh quen biết chị Lộc từ năm 1992 do chị Lộc là khách hàng thường xuyên lui tới cửa hàng may của anh và hai bên tìm hiểu, có ý định tiến tới hôn nhân. Tháng 10-1995 chị Lộc có đưa cho anh một tờ khai để làm đăng ký kết hôn. Anh đã khai và ký vào tờ khai rồi đưa lại cho chị Lộc nhưng chưa đến Uỷ ban nhân dân phường làm thủ tục đăng ký kết hôn. Về sau, qua bạn bè anh được biết chị Lộc là người không đứng đắn nên đã chấm dứt ý định kết hôn. Khoảng tháng 12-1999 chị Lộc đến nhà anh gây gổ, mang theo con và nói rằng có đăng ký kết hôn với anh, cháu bé là con của anh. Anh đến Uỷ ban nhân dân phường thì mới biết có việc đăng ký kết hôn và chị Lộc đã giả mạo chữ ký của anh để ký vào sổ kết hôn.

    Theo các lời khai của phía bị đơn là chị Phạm Thị Lộc trong quá trình giải quyết vụ án thì: Chị và anh Hùng đã có thời gian tìm hiểu từ năm 1992, tới năm 1995 hai người quyết định kết hôn nhưng phải giấu gia đình vì chị lớn tuổi hơn anh Hùng nên gia đình anh Hùng không đồng ý. Sau khi làm thủ tục kê khai, chị cùng anh Hùng ra Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi làm thủ tục đăng ký kết hôn. Do không hiểu biết nên chị đã ký thay anh Hùng vào sổ kết hôn. Ngay sau đó, ông Nguyễn Khắc Hà là cán bộ tư pháp phường đã nói ký như vậy là không đúng nhưng cũng không yêu cầu ký lại và vẫn cấp bản đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận kết hôn (số 84 ngày 18-10-1995) do anh Hùng giữ.

    Cũng theo chị Lộc trình bày: Sau khi kết hôn, chị và anh Hùng lên thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn chung sống được một tháng thì anh Hùng về Bắc Giang. Chị tiếp tục ở Lạng Sơn ba tháng nữa, anh Hùng lên thăm chị mỗi tháng một tuần. Khi về ở thị xã Bắc Giang, chị và anh Hùng vẫn chưa dám công khai với gia đình nên mỗi người sống một nơi. Cuối năm 1998 chị và anh Hùng quyết định có con chung và ngày 12-8-1999 chị sinh được một cháu gái. Khi sinh con, anh Hùng vẫn đến thăm, chăm sóc mẹ con chị và chính anh Hùng đặt tên cho con là Nguyễn Thị Ngọc Anh. Chị làm khai sinh cho cháu đứng tên bố là Nguyễn Văn Hùng, mẹ là Phạm Thị Lộc. Anh Hùng vẫn không dám thưa chuyện với gia đình nên chị đã trực tiếp đến thưa chuyện. Gia đình anh Hùng vẫn không đồng ý về quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng và chị. Ngay sau đó anh Hùng có đơn yêu cầu huỷ hôn nhân với chị. Chị không đồng ý việc xác định quan hệ hôn nhân giữa chị và anh Hùng là không hợp pháp.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 25-9-2000, Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang quyết định:

    - Huỷ đăng ký kết hôn số 84 ngày 18-10-1995 do Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang cấp cho chị Phạm Thị Lộc (vợ) và anh Nguyễn Văn Hùng (chồng).

    - Chị Phạm Thị Lộc phải trả cho anh Nguyễn Văn Hùng 180.000 đồng chi phí giám định.

    án phí: Anh Hùng phải chịu 50.000 đồng án phí sơ thẩm dân sự.

    Các bên đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

    Ngày 6-10-2000, chị Lộc kháng cáo: hôn nhân của chị và anh Hùng là hợp pháp, không thể coi việc làm sai thủ tục đăng ký kết hôn của Uỷ ban nhân dân là căn cứ để huỷ đăng ký kết hôn giữa chị và anh Hùng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT ngày 27-11-2000, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định:

    - Về hình thức: chấp nhận đơn kháng cáo của chị Phạm Thị Lộc.

    - Về nội dung: y án sơ thẩm.

    1. Huỷ việc đăng ký kết hôn số 84 ngày 18-10-1995 do Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang, tỉnh Hà Bắc (cũ) nay là tỉnh Bắc Giang tiến hành giữa chị Phạm Thị Lộc và anh Nguyễn Văn Hùng.

    2. Chị Phạm Thị Lộc phải hoàn trả cho anh Nguyễn Văn Hùng 180.000 đồng tiền chi phí giám định.

    3. Về án phí: anh Nguyễn Văn Hùng phải chịu 50.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

    Chị Phạm Thị Lộc phải chịu 50.000 đồng án phí phúc thẩm.

    án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

    Chị Lộc có nhiều đơn khiếu nại bản án phúc thẩm với nội dung thừa nhận có sai khi ký hộ anh Hùng vào sổ kết hôn nhưng cán bộ Uỷ ban không yêu cầu làm lại, nên không thể coi đó là căn cứ để huỷ hôn nhân hợp pháp giữa chị và anh Hùng. Đơn khiếu nại của chị Lộc còn yêu cầu giải quyết nhiều nội dung chưa có yêu cầu giải quyết ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm như: đề nghị xác nhận cháu Ngọc Anh là con anh Hùng và buộc anh Hùng phải chịu chi phí giám định gen để chứng minh; buộc anh Hùng phải bồi thường nhân phẩm cho chị; xử lý anh Hùng về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng vì hiện anh Hùng đã kết hôn với chị Nguyễn Thị Loan tại Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang ngày 18-4-2001.

    Ngày 12-9-2002, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị số 72 đối với bản án phúc thẩm nêu trên với nội dung: Toà án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm huỷ việc đăng ký kết hôn giữa anh Hùng và chị Lộc là không đúng. Đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, huỷ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang, bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử lại từ sơ thẩm.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số208/GĐT-DS ngày 08-10-2002, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết đinh:

    Sửa bản án phúc thẩm, xử:

    - Bác yêu cầu của anh Nguyễn Văn Hùng về việc xin tuyên bố huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật với chị Phạm Thị Lộc.

    - Anh Hùng phải nộp án phí sơ thẩm là 50.000 đồng. Hoàn trả lại cho các đương sự các khoản tạm ứng án phí đã nộp.

    Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm, chị Lộc có nhiều đơn khiếu nại với nhiều nội dung trong đó có nội dung đề nghị xử lý hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng của anh Hùng.

    Anh Hùng có đơn khiếu nại Quyết định giám đốc thẩm với nội dung: Thực chất việc hôn nhân giữa anh và chị Lộc là sự tính toán, sắp đặt của mình chị Lộc, anh không có ý định kết hôn với chị Lộc mà bị chị Lộc lừa dối.

    Tại Quyết định kháng nghị số126/2005/DS-KN ngày 28-9-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã nhận định:

    Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì lời khai của chị Lộc phù hợp với lời khai của anh Hùng về việc hai người đã thống nhất ý định kết hôn, có quan hệ sinh lý với nhau, có thời gian chung sống tại thị xã Lạng Sơn vào cuối năm 1995 và sau khi chị Lộc sinh cháu Ngọc Anh, anh Hùng có đến thăm 2, 3 lần, có cho quà, cho tiền. Ngoài ra, lời khai của chị Lộc còn phù hợp với lời khai của các nhân chứng là ông Nguyễn Khắc Hà (cán bộ tư pháp Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, người trực tiếp làm thủ tục công nhận kết hôn cho anh Hùng và chị Lộc) bà Lê Thị Chuật (ở thị xã Lạng Sơn), chị Nguyễn Thị Châm (ở thị xã Bắc Giang) và phù hợp kết quả xác minh tại công an phường Đông Kinh, thị xã Lạng Sơn về diễn biến quan hệ vợ chồng giữa anh Hùng, chị Lộc sau khi kết hôn. Với các căn cứ trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng và chị Lộc là hợp pháp kể từ ngày đăng ký kết hôn (18-10-1995) và quyết định sửa bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT ngày 27-11-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang bác yêu cầu của anh Hùng về việc xin tuyên bố huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật với chị Lộc là đúng pháp luật.

    Tuy nhiên, trước khi có Quyết định giám đốc thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và trong thời gian bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT 
    ngày 27-11-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang có hiệu lực pháp luật, vào ngày 18-4-2001 anh Hùng đã làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Nguyễn Thị Loan tại Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Vì vậy, sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì đồng thời tồn tại hai quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng với chị Lộc và giữa anh Hùng với chị Loan. Việc tồn tại hai quan hệ hôn nhân này là trái với nguyên tắc “một vợ một chồng”quy định tại Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy, cần phải huỷ Quyết định giám đốc thẩm, bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng đưa chị Nguyễn Thị Loan vào tham gia tố tụng, bác yêu cầu của anh Hùng về việc xin tuyên bố huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật với chị Lộc huỷ Quyết định kết hôn ngày 18-4-2001 giữa anh Hùng với chị Loan theo đúng quy định của pháp luật.

    Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Quyết định giám đốc thẩm số208/GĐT-DS ngày 8-10-2002 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT ngày 27-11-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 25-9-2000 của Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên Toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    Xét thấy:

    Tại thời điểm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, với các chứng cứ thu thập được đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng và chị Lộc là hôn nhân hợp pháp và thời kỳ hôn nhân hợp pháp kể từ ngày đăng ký kết hôn (18-10-1995). Tuy vậy, cũng tại thời điểm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm thì anh Hùng đã kết hôn với chị Loan nên quyết định về quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng với chị Lộc là có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của chị Loan; đồng thời, sau khi Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phúc thẩm, chị Lộc đã có đơn khiếu nại đối với bản án phúc thẩm nêu trên, trong đó có yêu cầu xử lý việc anh Hùng kết hôn với chị Loan (đơn khiếu nại ngày 15-3-2002...). Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì hôn nhân giữa anh Hùng và chị Lộc là hợp pháp nên quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng và chị Loan là vi phạm nguyên tắc “một vợ, một chồng”quy định tại Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Do đó, lẽ ra cần phải huỷ bản án phúc thẩm, bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm cả quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng với chị Lộc và quan hệ hôn nhân giữa anh Hùng với chị Loan mới đúng, nhưng Quyết định giám đốc thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chỉ sửa bản án phúc thẩm, bác yêu cầu của anh Hùng xin huỷ việc kết hôn trái pháp luật với chị Lộc là chưa đảm bảo giải quyết triệt để các vấn đề liên quan của vụ án.

    Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành (khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự) thì yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự (không phải là vụ án dân sự như trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực). Vì vậy, yêu cầu của anh hùng xin huỷ việc kết hôn trái pháp luật với chị Lộc và yêu cầu của chị Lộc về xử lý việc kết hôn giữa anh Hùng với chị Loan phải được Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo trình tự tố tụng giải quyết việc dân sự.

    Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 3 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự.

    Quyết định:

    1. Huỷ Quyết định Giám đốc thẩm số208/GĐT-DS ngày 8-10-2002 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT ngày 27-11-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 25-9-2000 của Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ quyết định giám đốc thẩm, các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Quyết định giám đốc thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chỉ quyết định sửa bản án phúc thẩm, bác yêu cầu xin huỷ hôn nhân trái pháp luật của nguyên đơn là chưa đảm bảo giải quyết triệt để các vấn đề có liên quan trong vụ án;

    2. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự (không phải là vụ án dân sự).

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ Quyết định giám đốc thẩm, các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ;

    2. Có sự thay đổi của luật tố tụng dân sự về thủ tục giải quyết yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 10:06:49 SA
     
    2743 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận