Quyết định giám đốc thẩm số 22/2005/ds-gđt ngày 23-6-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở”

Chủ đề   RSS   
  • #264958 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 22/2005/ds-gđt ngày 23-6-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở”

    Số hiệu

    22/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số22/2005/ds-gđt ngày 23-6-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở”

    Ngày ban hành

    23/06/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số22/2005/DS-GĐT

    NGÀY 23-6-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP QUYềN Sở HữU NHÀ VÀ QUYềN Sử DụNG ĐấT ở”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 23 tháng 6 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở giữa các đương sự:

    Nguyên đơn:

    Bà Tô Thị Hiếu, ông Phan Hữu Phước, ông Phan Văn Thống, đều trú tại: ấp 23, xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Phan Hữu Đức, bà Phan Thị Lệ Hằng, ông Phan Trường Giang, đều trú tại: ấp 24, xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Phan Thanh Phỉ, trú tại: nhà số 1, khóm 6, ấp 1, thị trấn Hộ Phòng, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. (Tất cả nguyên đơn đều uỷ quyền cho ông Phan Thanh Phỉ đại diện).

    Bị đơn:

    Bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, trú tại: nhà số 66/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, trú tại: nhà số 174/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Bà Nguyễn Thị Bích Thuỷ, bà Nguyễn Thị Mỹ Hằng, ông Nguyễn Việt Hải, đều trú tại: nhà số 66/4 khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Vưu Quốc Khanh, trú tại: Nhà số 71B/4 khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Bà Trần Ngọc Mai, trú tại: nhà số 71A/4 khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Sơn Song, trú tại: nhà số 79/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Nguyễn Văn Hậu, trú tại: nhà số 174/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Tạ Văn ổn, bà Nguyễn Thị Thêm, đều trú tại: nhà số 66/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Ông Nguyễn Văn Bảy (chết), do bà Huỳnh Thị Nga đại diện, trú tại: nhà số 41/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;

    Nhận thấy:

    Ông Phan Thanh Nhứt đã có vợ chính thức là bà Tô Thị Hiếu, nhưng 
    năm 1976, ông Nhứt đã quan hệ với bà Trần Thị Phước và sau đó chung sống như vợ chồng. Năm 1993, bà Phước xin ly hôn với ông Nhứt. Hai bên thuận tình ly hôn, nhưng chưa thống nhất được nội dung phân chia nhà đất tại khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu là nhà đất mà hai người đã sống chung trước đó. (Bà Phước cho rằng nhà đất trên do bà bỏ tiền ra đưa cho ông Nhứt mua để sống chung, nên yêu cầu được tiếp tục sử dụng 8/10 nhà đất, còn cho ông Nhứt được hưởng 2/10. Ông Nhứt cho rằng nhà đất trên là tài sản riêng của ông mua năm 1976, bà Phước và các con bà Phước chỉ là người được ông cho về sống chung tại nhà trên từ năm 1979). Khi vụ án chưa được giải quyết xong thì 
    ngày 19-11-1993 bà Phước chết. Toà án nhân dân thị xã Bạc Liêu đã quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

    Ngày 10-12-1993 ông Nhứt có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc các bị đơn là Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Bích Thuỷ (là các con của bà Phước và là người đang trực tiếp sử dụng nhà đất) di dời và trả lại nhà đất.

    Các bị đơn là Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Bích Thuỷ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Mỹ Hằng và Nguyễn Việt Hải (đều là các con của bà Phước), do chị Nguyễn Thị Mỹ Linh đại diện theo uỷ quyền cho rằng: toàn bộ tiền mua nhà đất là của bà Phước bỏ ra đưa cho ông Nhứt, ông Nhứt chỉ là người đứng ra giao dịch, vì vậy, nhà, đất trên là tài sản thuộc sở hữu riêng của bà Phước, nên không đồng ý giao nhà, đất theo yêu cầu của ông Nhứt. Ngoài ra, các bị đơn còn có yêu cầu phản tố, đề nghị Toà án giải quyết buộc ông Nhứt phải bồi thường số tiền mà bà Phước đã phải bỏ ra vào năm 1985 để thực hiện hợp đồng sửa chữa ôtô thay cho ông Nhứt.

    Đối với căn nhà số 174/4 gia đình chị Hạnh đang sử dụng thì chị Hạnh cho rằng đây là nhà riêng của chị. Theo chị Hạnh thì năm 1978, ông Nhứt và bà Phước đã bán cho chị một phần đất ở phía sau, chị đã trả cho ông Nhứt và bà Phước 50 đồng và san lấp làm nhà ở, việc mua bán này không làm giấy tờ gì do là người trong gia đình. Năm 1985, bà Phước đổi cho chị lên ở phần nhà xưởng phía trên (là nhà số 174/4 hiện nay) và lấy phần nhà đất phía sau của chị để bán cho bà Nguyễn Thị Hạnh lấy tiền thực hiện hợp đồng thay cho ông Nhứt. Vì vậy, chị Hạnh yêu cầu Toà án giải quyết công nhận cho chị quyền sở hữu và sử dụng đối với căn nhà trên và gia đình chị được tiếp tục sử dụng căn nhà này.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 39/DSST ngày 19-9-1994, Toà án nhân dân thị xã Bạc Liêu quyết định:

    1. Công nhận quyền sở hữu căn nhà số 66/4 đường Trần Phú, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu của ông Phan Thanh Nhứt.

    2. Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, chị Nguyễn Thị Mỹ Linh, chị Nguyễn Thị Bích Thuỷ, chị Nguyễn Thị Mỹ Hằng và anh Nguyễn Việt Hải phải có trách nhiệm hoàn trả căn nhà số 66/4 đường Trần Phú, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu cùng toàn bộ căn nhà xưởng phía trước, trong đó có căn nhà mang số 174/4 lại cho ông Phan Thanh Nhứt. Thời gian lưu cư là 06 (sáu) tháng, tính từ ngày xử sơ thẩm 19-9-1994.

    3. Ông Phan Thanh Nhứt có trách nhiệm hoàn trả cho các thừa kế của bà Trần Thị Phước số tiền 2.196.512 đồng, số tiền này được giao cho chị Nguyễn Thị Mỹ Linh quản lý, chị Linh có trách nhiệm chia đều cho các người thừa kế của bà Phước.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 25-9-1994, chị Nguyễn Thị Mỹ Linh kháng cáo.

    Do phần đất phía sau bà Phước đã bán năm 1985 để thực hiện tiếp hợp đồng của ông Nhứt để lại, nên tại phiên toà phúc thẩm ngày 22-7-1995, ông Nhứt không yêu cầu Toà án giải quyết buộc các bị đơn có trách nhiệm trả lại phần đất này nữa, chỉ yêu cầu Toà án giải quyết buộc các bị đơn trả lại phần nhà đất hiện các bị đơn đang sử dụng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 116/DSPT ngày 22-7-1995, Toà án nhân dân tỉnh Minh Hải đã quyết định xử y án sơ thẩm.

    Ngày 04-3-1996, chị Nguyễn Thị Mỹ Linh khiếu nại, yêu cầu xác định nhà đất thuộc tài sản chung giữa bà Phước và ông Nhứt và xin được chia nhà để ở do hiện nay các bị đơn không có nơi ở khác.

    Tại Quyết định kháng nghị số 239 ngày 25-7-1996, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhận định việc Toà án cấp phúc thẩm xác định nhà đất tranh chấp thuộc quyền sở hữu của riêng ông Nhứt và xử buộc các nguyên đơn trả lại toàn bộ là không đúng, vì vậy, kháng nghị bản án phúc thẩm số 116/DSPT 
    ngày 22-7-1995 của Toà án nhân dân tỉnh Minh Hải nói trên, giao hồ sơ cho Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số 16 ngày 27-1-1997, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định: huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 39/DSST ngày 19-9-1994 của Toà án nhân dân thị xã Bạc Liêu và bản án dân sự phúc thẩm số 116/DSPT ngày 22-7-1995 của Toà án nhân dân tỉnh Minh Hải, giao hồ sơ về cho Toà án nhân dân tỉnh Minh Hải điều tra xét xử sơ thẩm lại.

    Tại cuộc hoà giải ngày 18-6-1997, ông Nhứt đồng ý cho các con bà Phước được hưởng 4/10 giá trị nhà đất, còn các bị đơn yêu cầu được hưởng 1/2 nhà đất, vì vậy, hoà giải không thành. Ngày 07-4-1999, ông Nhứt uỷ quyền cho con là anh Phan Thanh Phỉ đại diện ông Nhứt tham gia tố tụng. Ngày 19-6-1999, anh Phỉ đã rút lại ý kiến phân chia nhà đất ngày 18-6-1997 của ông Nhứt. Tại phiên toà sơ thẩm cùng ngày, anh Phỉ mặc dù thừa nhận trong số tiền mua nhà có 500.000 đồng là tiền của chung giữa bà Phước và ông Nhứt, nhưng vẫn tiếp tục yêu cầu đòi lại toàn bộ nhà đất mà các bị đơn đang sử dụng cùng các phần đất mà bà Phước mẹ các bị đơn đã bán năm 1985.

    Tại bản án số 02/STDS ngày 19-6-1999, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:

    1. Chấp nhận yêu cầu của ông Phan Thanh Nhứt đòi chia tài sản căn nhà số 66/4, đường Trần Phú, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu.

    2. Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ Linh và các anh em ruột của chị Nguyễn Thị Mỹ Linh hiện ở tại căn nhà số 66/4, đường Trần Phú, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu phải giao trả căn nhà nêu trên kèm theo diện tích đất 210,2m2lại cho ông Phan Thanh Nhứt.

    Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh phải tháo dỡ nhà giao lại diện tích đất nền 80,54m2 ở tại thửa số 04 khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu lại cho ông Phan Thanh Nhứt.

    Ông Nhứt có trách nhiệm hoàn lại phần được chia và tiền sửa chữa nhà cho bà Phước = 69.194.925 đồng do chị Nguyễn Thị Mỹ Linh đại diện để nhận, ông Nhứt hoàn lại cho chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh = 15.000.000 đồng (tiền công sang lấp và tiền để chị Hạnh di dời).

    Chị Hạnh và chị Linh được lưu cư trong hạn 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 01-7-1999, chị Linh và chị Hạnh kháng cáo xin xét lại mức bồi thường và xin được nhận nhà đất vì không có nơi ở khác.

    Ngày 02-7-1999, anh Phan Thanh Phỉ đại diện theo uỷ quyền của ông Nhứt kháng cáo, không đồng ý với việc Toà án xác định nhà đất có tranh chấp là tài sản thuộc sở hữu chung.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 117/PTDS ngày 21-4-2000, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: huỷ bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 19-6-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu; giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để xét xử lại theo trình tự sơ thẩm từ giai đoạn điều tra.

    Ngày 05-02-2000 (ÂL) ông Nhứt chết, những người thừa kế của ông Nhứt (vợ và con ông Nhứt) đều uỷ quyền cho anh Phỉ tiếp tục tham gia tố tụng. Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã xác định những người thừa kế của ông Nhứt là đồng nguyên đơn, đồng thời đưa thêm những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác vào tham gia tố tụng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 26-6-2001, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:

    - Bác yêu cầu của bà Huỳnh Thị Nga đòi nguyên và bị đơn số tiền 500.000 đồng do ông Nhứt mua nhà còn thiếu.

    - Chấp nhận một phần yêu cầu của phía nguyên đơn do anh Phan Thanh Phỉ đại diện yêu cầu đòi lại phần đất và nhà số 66/4 khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu.

    Buộc các chị Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Bích Thuỷ, Nguyễn Thị Mỹ Hằng, các anh Nguyễn Việt Hải, Tạ Văn ổn và một số người khác hiện đang ở trong căn nhà số 66/4, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu phải có trách nhiệm giao trả lại nhà trên và phần đất có diện tích 210,2m2 cho ông Phan Thanh Nhứt mà đại diện nhận là anh Phan Thanh Phỉ.

    Chị Linh, chị Thuỷ, chị Hằng, anh Hải, anh ổn được hưởng thời gian lưu cư tại căn nhà số 66/4. khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu đến hạn chót là 
    ngày 01-7-2005. Nhưng chị Linh, chị Thuỷ, chị Hằng, anh Hải, anh ổn phải ký hợp đồng thuê nhà với phía nguyên đơn do anh Phỉ đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự, giá thuê do Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu ban hành. Nếu chị Linh, chị Thuỷ, chị Hằng, anh Hải, anh ổn không chịu ký hợp đồng thì phải trả lại nhà. Còn nếu phía anh Phỉ không đồng ý việc ký hợp đồng cho thuê nhà với phía chị Linh, chị Thuỷ, chị Hằng, anh Hải, anh ổn được tiếp tục lưu cư tại căn nhà số 66/4 cho đến ngày 01-7-2005.

    Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, anh Nguyễn Văn Hậu phải tháo dỡ căn nhà số 174/4 toạ lạc tại thửa số 04, khóm 2, phường 7, thị xã Bạc Liêu để giao trả lại phần đất 80,54m2 cho phía ông Nhứt do anh Phỉ đại diện nhận. Đồng thời vợ chồng chị Hạnh, anh Hậu cùng các con có quyền lưu cư trên phần đất này cho đến hạn chót là ngày 01-7-2005. Nhưng vợ chồng chị Hạnh, anh Hậu phải ký hợp đồng thuê đất với phía nguyên đơn do anh Phỉ đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự, giá thuê do Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu ban hành. Nếu chị Hạnh anh Hậu không chịu ký hợp đồng thuê thì phải dỡ nhà trả lại phần đất trên cho phía anh Phỉ. Còn nếu phía anh Phỉ không đồng ý ký hợp đồng cho thuê thì chị Hạnh anh Hậu cùng các con của anh chị được tiếp tục lưu cư ở phần đất trên cho đến ngày 01-7-2005.

    - Phía ông Nhứt đại diện là ông Phan Thanh Phỉ phải có trách nhiệm hoàn cho phía bà Phước 69.194.925 đồng do chị Nguyễn Thị Mỹ Linh là người đại diện nhận và phải hoàn lại cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, anh Nguyễn Văn Hậu số tiền 15.000.000 đồng (tiền công san lấp và tiền di dời nhà).

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 06-7-2001 và ngày 07-7-2001, chị Nguyễn Thị Mỹ Linh, chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và anh Nguyễn Văn Hậu có đơn kháng cáo xin xét xử lại toàn bộ bản án sơ thẩm, xin được tiếp tục sử dụng nhà đất do không có nơi ở khác.

    Ngày 07-7-2001 anh Phan Thanh Phỉ có đơn kháng cáo xin xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 44/DSPT ngày 22-3-2002, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử bác kháng cáo của các bên, giữ nguyên nội dung quyết định của bản án sơ thẩm.

    Ngày 09-10-2002, Chị Linh khiếu nại, yêu cầu được hưởng 6/10 nhà đất và được nhận nhà đất để sử dụng do không có nơi ở khác.

    Tại Quyết định kháng nghị số 16/KNDS ngày 07-3-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhận định: Toà án cấp phúc thẩm xác định nhà đất trên thuộc tài sản chung của ông Nhứt và bà Phước và xử cho mỗi bên được hưởng một phần là có cơ sở, tuy nhiên việc Toà án cấp phúc thẩm chỉ cho các bị đơn được hưởng 1/4 giá trị nhà đất tranh chấp là chưa thật phù hợp và không đúng với nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của pháp luật. Vì vậy, kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 44/DSPT ngày 22-3-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 44/DSPT ngày 22-3-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    xét thấy:

    Ngày 10-12-1993, ông Phan Thanh Nhứt có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc các bị đơn là Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Bích Thuỷ trả lại nhà đất. Toà án các cấp xác định ông Phan Thanh Nhứt là nguyên đơn trong vụ án là đúng. Ngày 07-4-1999, ông Nhứt uỷ quyền cho con là anh Phan Thanh Phỉ đại diện tham gia tố tụng. Khi vụ án chưa được giải quyết xong, 
    ngày 05-02-2000 (ÂL) ông Nhứt chết. Theo quy định tại khoản 4 Điều 594 Bộ luật dân sự, việc ông Nhứt uỷ quyền cho con là anh Phan Thanh Phỉ đại diện ông Nhứt tham gia tố tụng đã chấm dứt. Ngày 02-9-2000 và 11-02-2001, anh Phan Thanh Phỉ và những người thừa kế khác của ông Phan Thanh Nhứt là bà Tô Thị Hiếu, anh Phan Vĩnh Phước, anh Phan Hữu Đức, anh Phan Minh Thống, anh Phan Trường Giang và chị Phan Thị Lệ Hằng có đơn yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án. Lẽ ra, khi giải quyết lại vụ án, Toà án cần xác định những người này là những người thừa kế tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 27 Pháp lệnh thủ tục các vụ án dân sự, nhưng Toà án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại xác định họ tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn trong vụ án là chưa hoàn toàn chính xác.

    Trong quá trình giải quyết tranh chấp, cả phía nguyên đơn và bị đơn đều cho rằng tiền mua nhà là của phía mình đưa cho ông Nhứt đứng tên mua, nhưng đều không có căn cứ gì để chứng minh và ông Nhứt (khi còn sống) không thừa nhận. Do việc mua nhà đất trên được tiến hành trong thời gian ông Nhứt đã có quan hệ như vợ chồng với bà Phước, ngoài 1/2 số tiền mua nhà đã trả năm 1976, số tiền mua nhà đất còn lại được thanh toán trong thời gian bà Phước và ông Nhứt sống và kinh doanh chung tại nhà đất trên; năm 1982 bà Phước và ông Nhứt đã cải tạo xây dựng thêm nhà xưởng sửa chữa ôtô (hiện là nhà số 174/4 vợ chồng chị Hạnh đang sử dụng); từ năm 1985 đến cuối năm 1993, ông Nhứt bỏ đi nơi khác, mọi công việc kinh doanh bà Phước chịu trách nhiệm thực hiện thay, đồng thời mẹ con bà Phước tiếp tục giữ gìn, quản lý nhà đất và thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Như vậy, 1/2 căn nhà nêu trên là tài sản chung của bà Phước và ông Nhứt. Đồng thời, trong quá trình giải quyết tranh chấp, ông Nhứt có lúc đã thể hiện ý chí cho các bị đơn được hưởng 4/10 giá trị nhà đất. Cần được xem xét cho thoả đáng.

    Nhà đất tranh chấp có diện tích là 210m2 + 80,54m2 = 290,54m2, có vị trí giáp hai mặt đường (là đường Trần Phú và hẻm số 7). Các nguyên đơn chưa từng sinh sống tại nhà đất trên và hiện đã có nơi ở khác ổn định. Các bị đơn đã sống tại nhà đất trên từ trước đến nay. Toà án cấp phúc thẩm lại giải quyết cho bên nguyên đơn được nhận toàn bộ nhà đất, còn bên bị đơn không có chỗ ở nào khác, nhưng chỉ được nhận bằng giá trị và phải di dời trả lại nhà đất cho các nguyên đơn là không đúng với nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định tại Điều 238 hoặc nguyên tắc phân chia di sản theo pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 688 của Bộ luật dân sự.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 44/DSPT ngày 22-3-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 26-6-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã xét xử vụ án đòi tài sản nhà đất giữa các nguyên đơn là bà Tô Thị Hiếu, anh Phan Hữu Phước, anh Phan Văn Thống, anh Phan Hữu Đức, chị Phan Thị Lệ Hằng, anh Phan Trường Giang và anh Phan Thanh Phỉ với các bị đơn là chị Nguyễn Thị Mỹ Linh và chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh.

    2. Giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định chưa chính xác tư cách của những người tham gia tố tụng;

    2. Toà án cấp phúc thẩm quyết định giao cho nguyên đơn toàn bộ nhà, đất trong khi bị đơn (không có chỗ ở nào khác) chỉ được nhận bằng giá trị là không đúng với quy định tại Điều 238 và khoản 2 Điều 688 của Bộ luật dân sự.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    Thiếu sót trong việc vận dụng các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và quy định của Bộ luật dân sự.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 09:29:09 SA
     
    2671 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận