Quyết định giám đốc thẩm số 21/2006/hs-gđt ngày 01-8-2006 về vụ án vũ hoàng oanh và john nguyễn phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”

Chủ đề   RSS   
  • #265096 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 21/2006/hs-gđt ngày 01-8-2006 về vụ án vũ hoàng oanh và john nguyễn phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”

    Số hiệu

    21/2006/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số21/2006/hs-gđt ngày 01-8-2006 về vụ án vũ hoàng oanh và john nguyễn phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”

    Ngày ban hành

    01/08/2006

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ21/2006/HS-GĐT NGÀY 01-8-2006 VỀ VỤ ÁN VŨ HOÀNG OANH VÀ JOHN NGUYỄN PHẠM TỘI “MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ”

     

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    ...

    Ngày 01 tháng 8 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    1. Vũ Hoàng Oanh (tức Vũ Thị Oanh) sinh năm 1957 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 1 ngõ 23 Trạng Trình, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: số 8 ngõ 380 Tô Hiệu, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; con ông Vũ Như Thuỷ (đã chết) và bà Hoàng Thị Lựu; có chồng và 04 con; bị bắt tạm giam ngày 11-7-2002.

    2. John Nguyễn (tức Nguyễn Như Hùng) sinh năm 1957 tại Hải Phòng; trú tại 11057 Wist Mimosada-USA (Hoa Kỳ); tạm trú: 311/22 Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Hoa Kỳ; con ông Nguyễn Văn Giao (đã chết) và bà Nguyễn Thị Trúc; có vợ và 03 con; bị bắt tạm giam ngày 31-3-2001.

    Trong vụ án còn có các bị cáo: Ngô Xuân Phương, Ngô Đức Minh, Đặng Văn Rơi, Lưu Công Dũng, Trần Văn Tỉnh, Phạm Công Giản, Phạm Huy Phong, Tăng Anh Tuấn, Vũ Tiến Trưởng.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 26-5-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra thuộc Bộ công an khởi tố vụ án Nguyễn Duy Dũng (tức Dũng Đui) cùng đồng bọn phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Qua đấu tranh khai thác, cơ quan điều tra tiến hành bắt Ngô Đức Minh, Vũ Tiến Trưởng, Ngô Xuân Phương, Lưu Công Dũng, Đặng Văn Rơi, Vũ Hoàng Oanh, Phạm Công Giản, Trần Văn Tỉnh, Tăng Anh Tuấn, John Nguyễn (tức Nguyễn Như Hùng), Phạm Huy Phong. Kết quả điều tra đã xác định được Ngô Đức Minh và Ngô Xuân Phương có quan hệ với nhau từ lâu ở Hải Phòng. Năm 1989, Ngô Xuân Phương sang định cư ở Nhật Bản nhưng vẫn thường xuyên qua lại Việt Nam để buôn bán. Trong một lần về Việt Nam, Ngô Xuân Phương đã gặp Ngô Đức Minh bàn việc mua bán ma túy. Từ năm 1993 đến năm 2001, Ngô Đức Minh, Ngô Xuân Phương mua ma túy tại Việt Nam và Campuchia của Nguyễn Đăng Đắc, Vũ Hoàng Oanh, Trần Văn Tỉnh, Polo, sau đó thuê Đặng Văn Rơi, Lưu Công Dũng và một số đối tượng khác vận chuyển sang Nhật Bản cho Ngô Xuân Phương tiêu thụ. Ngoài ra, Ngô Xuân Phương còn tổ chức mua thuốc lắc từ Hà Lan về Việt Nam cho John Nguyễn tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể hành vi phạm tội của Vũ Hoàng Oanh và John Nguyễn như sau:

    - Vũ Hoàng Oanh giúp sức cho việc mua bán ma tuý giữa Ngô Xuân Phương, Ngô Đức Minh và Vũ Hoàng Dung, đồng thời Vũ Hoàng Oanh còn lôi kéo Phạm Công Giản vào việc vận chuyển ma tuý cho những đối tượng trên. Trong năm 1993 và năm 1994, Vũ Hoàng Oanh đã tham gia mua bán trái phép chất ma tuý cùng đồng bọn 02 lần với tổng số lượng là 03 bánh heroin có trọng lượng 1.050 g và 50 kg cần sa.

    - John Nguyễn là Việt kiều Hoa Kỳ nhưng thường xuyên về cư trú tại Việt Nam. John Nguyễn đã cùng Ngô Xuân Phương và Vũ Văn Quang mua 6.000 viên ma tuý tổng hợp (thuốc lắc) tại Hà Lan, gửi về Việt Nam qua đường Bưu điện Hà Nội cho Lưu Công Dũng. Sau đó, John Nguyễn đã cùng Lưu Công Dũng mang số ma tuý này vào thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ. Ngày 31-3-2001, John Nguyễn đem 1.000 viên thuốc lắc bán tại vũ trường Monaco thì bị Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ; khám nhà John Nguyễn tại 311/22 Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh thu giữ tiếp 222 viên thuốc lắc. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 649/HSST ngày 29-5-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt John Nguyễn 20 năm tù về hành vi mua bán trái phép 1.222 viên ma tuý tổng hợp có trọng lượng 346,7 g. Vì vậy, trong vụ án này, John Nguyễn còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép 4.478 viên ma túy tổng hợp có trọng lượng 1.352,1 g.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 274/HSST ngày 26-02-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    - Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Hoàng Oanh tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tính từ ngày 11-7-2002.

    - Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo John Nguyễn tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; tổng hợp với hình phạt 20 năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 649/HSST ngày 29-5-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là tù chung thân, tính từ 
    ngày 31-3-2001.

    Bản án sơ thẩm còn có các quyết định về tội danh và hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối với các bị cáo khác và các quyết định khác về xử lý vật chứng, kê biên tài sản và án phí.

    Ngày 08-3-2004, bị cáo Vũ Hoàng Oanh kháng cáo kêu oan, xin xem xét lại tội danh và giảm hình phạt. Ngày 01-5-2004, Vũ Hoàng Oanh có đơn xin 
    rút đơn kháng cáo ngày 08-3-2004; đồng thời kháng cáo bổ sung xin giảm 
    hình phạt.

    Tại Quyết định kháng nghị số 313/KN/PT3 ngày 18-3-2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng hình phạt tử hình đối với các bị cáo Ngô Đức Minh, John Nguyễn, Vũ Hoàng Oanh, Phạm Công Giản, Phạm Huy Phong; tăng hình phạt từ 20 năm tù lên tù chung thân đối với bị cáo Tăng Anh Tuấn.

    Ngoài ra, trong vụ án còn có một số bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác kháng cáo.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1400/HSPT ngày 16-6-2004 (được đính chính tại Quyết định đính chính số 982/VP.PT ngày 30-5-2005 và Quyết định đính chính số 2160/VP.PT ngày 20-10-2005), Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (đã được sửa đổi, bổ sung) sửa bản án sơ thẩm 
    như sau:

    - Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự, xử phạt Vũ Hoàng Oanh tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

    - Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo John Nguyễn tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; tổng hợp với hình phạt 20 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 649/HSST ngày 29-5-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là tử hình.

    Bản án phúc thẩm còn có các quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án và án phí.

    Tại Quyết định kháng nghị số25/2004/HS-TK ngày 30-8-2004, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ quyết định về hình phạt chính đối với các bị cáo Vũ Hoàng Oanh và John Nguyễn của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết án Vũ Hoàng Oanh và John Nguyễn về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Toà án cấp phúc thẩm áp dụng hình phạt tử hình đối với hai bị cáo nêu trên là chưa có căn cứ vững chắc bởi lẽ:

    - Đối với Vũ Hoàng Oanh, tham gia mua bán trái phép 03 bánh heroin cùng với Ngô Xuân Phương, Ngô Đức Minh, Phạm Công Giản, Phạm Huy Phong. Vũ Hoàng Oanh khai Oanh phạm tội trong khi đang mang thai, nhưng về thời điểm phạm tội cụ thể thì Oanh lại khai không thống nhất: có lời khai là vào giữa năm 1993, có lời khai là vào tháng 3-1993, có lời khai là vào năm 1994, có lời khai là không nhớ chính xác. Bị cáo Phạm Công Giản khai thời điểm phạm tội là tháng 5-1993 hoặc tháng 6-1993. Các bị cáo Ngô Đức Minh, Phạm Huy Phong khai vụ mua bán 03 bánh heroin được thực hiện vào năm 1994; bị cáo Ngô Xuân Phương khai vụ này được thực hiện vào năm 1994 hoặc năm 1995. Vũ Hoàng Oanh sinh con vào ngày 12-6-1994, tức là Oanh mang thai từ khoảng tháng 9-1993. Như vậy, theo lời khai của bị cáo Vũ Hoàng Oanh và của các bị cáo khác trong vụ án về thời điểm Oanh phạm tội còn mâu thuẫn, chưa có căn cứ vững chắc để kết luận Oanh phạm tội vào thời điểm tháng 6-1993 là trước thời điểm Oanh có thai như Toà án cấp phúc thẩm nhận xét. Trong trường hợp không thể điều tra làm rõ thời điểm phạm tội của bị cáo thì Toà án cấp phúc thẩm áp dụng hình phạt tử hình đối với Vũ Hoàng Oanh là chưa thoả đáng.

    - Đối với John Nguyễn tham gia mua bán trái phép ma tuý tổng hợp (MDMA) với số lượng 6000 viên nhưng hành vi mua bán 1.222 viên ma tuý tổng hợp đã được tách ra xét xử ở vụ án khác nên trong vụ án này John Nguyễn chỉ bị truy tố, xét xử về hành vi mua bán trái phép 4.778 viên ma tuý tổng hợp = 1.352,1 g, theo quy định tại điểm b mục 3.1 Nghị quyết số01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì với số lượng 1352,1 g và bị cáo không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đặc biệt nào khác thì việc Toà án cấp phúc thẩm xử phạt bị cáo mức án tử hình là chưa đúng.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 1400/HSPT ngày 16-6-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về phần xét xử và quyết định hình phạt chính đối với các bị cáo Vũ Hoàng Oanh và John Nguyễn; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Các quyết định khác của bản án hình sự phúc thẩm không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    Chưa có đủ căn cứ để áp dụng hình phạt tử hình đối với hai bị cáo như quyết định của Toà án cấp phúc thẩm.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc nhận định, xác minh và đánh giá chứng cứ.

     

     

     
    3193 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận