Số hiệu
|
20/2009/KDTM-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số:20/2009/KDTM-GĐT ngày 29 tháng 7 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng
|
Ngày ban hành
|
29/07/2009
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA KINH TẾ
------------------
Quyết định giám đốc thẩm
Số:20/2009/KDTM-GĐT
Ngày 29 tháng 7 năm 2009
V/v: tranh chấp hợp đồng tín dụng
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA KINH TẾ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;
Các Thẩm phán: Ông Bùi Thế Linh;
Ông Nguyễn Văn Tiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Hợp Phố-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Trần Thị Kim Oanh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tối cao.
Họp phiên tòa ngày 29 tháng 7 năm 2009 tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, để xét xử giám đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa:
Nguyên đơn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Long An (theo xác định của Tòa án cấp sơ thẩm); có trụ sở tại số 396 Quốc lộ 1, phường 4, thị xã Tân An, tỉnh Long An; do bà Nguyễn Thị Trước – Phó giám đốc Chi nhánh làm đại diện theo Giấy ủy quyền số106/UQ-NHCT18 ngày 01/01/2005 của Tổng Giám đốc Ngân hàng công thương VN;
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng cơ sở hạ tầng Long An; có trụ sở tại số 50 Quốc lộ 1, phường 2, thị xã Tân An, tỉnh Long An; do ông Lê Hoàng Sơn – Giám đốc Công ty làm đại diện.
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện đề ngày 7/3/2005 của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ do các đương sự xuất trình trong quá trình giải quyết vụ án thì thấy:
Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Long An (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) do ông Nguyễn Văn Tiến – Giám đốc đại diện ký 03 hợp đồng tín dụng với Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Long An (sau đây viết tắt là Công ty đầu tư xây dựng Long An), cụ thể như sau:
- Hợp đồng số 02070068/HĐTD ngày 23/7/2002, với số tiền là 458.000.000 đồng; thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả nợ là 30/7/2005; lãi suất cho vay là 0,75%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 0.90%/tháng;
- Hợp đồng số 02070132/HĐTD ngày 5/12/2002, với số tiền là 700.000.000 đồng; thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả nợ là 5/12/2005; lãi suất cho vay là 0,80%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 1.20%/tháng. Để đảm bảo cho số tiền vay của hợp đồng tín dụng này, ngày 4/12/2002 giữa Ngân hàng với Công ty đầu tư xây dựng Long An đã ký Hợp đồng cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay là chiếc xà lan.
- Hợp đồng số 0290002/HĐTD ngày 31/12/2002, với số tiền là 100.000.000 đồng; thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả nợ là 31/12/2005; lãi suất cho vay là 0,80%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 150%/lãi suất cho vay; tài sản thế chấp là xe đào bánh xích.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng nêu trên, Công ty đầu tư xây dựng Long An đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo cam kết trong hợp đồng, nên ngày 7/3/2005 Ngân hàng có đơn khởi kiện yêu cầu Công ty đầu tư xây dựng Long An phải thanh toán tổng số tiền còn nợ của 3 hợp đồng tín dụng nêu trên tính đến ngày 6/3/2005 là 1.015.265.242 đồng và yêu cầu phát mại tài sản cầm cố để thu hồi nợ.
Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số02/QĐ-TA ngày 5/4/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
1. Công ty đầu tư xây dựng Long An phải thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền gốc và lãi của 03 hợp đồng là 1.022.547.865 đồng, cụ thể như sau:
- Hợp đồng số 02070068 ngày 23/7/2002: số tiền gốc là 1.000 đồng, tiền lãi là 20.612.492 đồng Công ty trả cho Ngân hàng vào ngày 30/7/2006.
- Hợp đồng số 02070132 ngày 5/12/2002, số tiền gốc và lãi là 919.913.906 đồng Công ty trả cho Ngân hàng bằng tài sản thế chấp là chiếc xà lan. Hạn chót để giao xà lan là ngày 30/5/2006.
- Hợp đồng số 0290002 ngày 31/12/2002, số tiền gốc là 58.000.000 đồng Công ty trả cho Ngân hàng vào ngày 30/5/2006: tiền lãi là 24.021.467 đồng, Công ty phải trả cho Ngân hàng vào ngày 30/6/2005. Nếu Công ty không thực hiện đúng phải giao tài sản thế chấp là xe đào bánh xích cho Ngân hàng để trừ nợ;
Ngày 24/01/2008, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao nhận được đơn của bà Nguyễn Thị Kim Huệ đề nghị xét lại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số02/QĐ-TA ngày 5/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do: Tòa án nhân dân tỉnh Long An khi giải quyết vụ án không đưa bà vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng vì bà là chủ sở hữu hợp pháp tài sản là chiếc xà lan. Việc Tòa án nhân dân tỉnh Long An giao xà lan của bà cho Công ty đầu tư xây dựng Long An là trái pháp luật, trái với Điều 5 của Hợp đồng số 02070132/HĐTC ngày 4/12/2002.
Ngày 8/4/2008, Liên minh hợp tác xã thành phố Cần Thơ có Công văn số43/CV-LMHTX, đề nghị xem xét lại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm vì không bảo vệ quyền lợi cho bà Huệ, là vi phạm tố tụng.
Tại Quyết định kháng nghị số02/2009/KDTM-KN-TKT ngày 10/02/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số02/QĐ-TA ngày 5/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số02/QĐ-TA ngày 5/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY
Hợp đồng cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay số 02070132/HĐTC ngày 4/12/2002 giữa Ngân hàng và Công ty đầu tư xây dựng Long An được Sở Giao thông vận tải tỉnh Long An xác nhận vào ngày 4/12/2002 và Phòng công chứng số 1 tỉnh Long An chứng nhận ngày 5/12/2002. (Tại thời điểm này và hiện nay, ở tỉnh Long An chưa có cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm). Tài sản cầm cố theo hợp đồng này là chiếc xà lan chở hàng, số đăng ký LA 5979H, do Công ty đầu tư xây dựng Long An là chủ sở hữu (trên giấy tờ). Nhưng trong hồ sơ vụ án có tài liệu, chứng cứ thể hiện ông Đào Thành Hưng và bà Nguyễn Thị Kim Huệ có liên quan đến tài sản cầm cố tại Ngân hàng là chiếc xà lan nêu trên. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Hoàng Sơn đại diện bị đơn (Công ty đầu tư xây dựng Long An)đã có đơn đề nghị Tòa án triệu tập ông Đào Thành Hưng và bà Nguyễn Thị Kim Huệ tham gia tố tụng, nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Long An không đưa bà Huệ, ông Hưng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự “…Công ty trả cho Ngân hàng bằng tài sản thế chấp là chiếc xà lan…” là không đảm bảo quyền lợi của các đương sự, không đúng pháp luật và vi phạm tố tụng;
Ngoài ra, Tòa án nhân dân tỉnh Long An xác định nguyên đơn trong vụ án này là Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Long An là không đúng mà nguyên đơn phải là Ngân hàng Công thương Việt Nam;
Vì vậy, xét thấy Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ để chấp nhận;
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số02/QĐ-TA ngày 5/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ; giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
CÁC THẨM PHÁN
Bùi Thế Linh Nguyễn Văn Tiến
(Đã ký)
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Hải
(Đã ký)
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 04:31:38 CH