Quyết định giám đốc thẩm số 19/2006/hs-gđt ngày 04-7-2006 về vụ án nguyễn thị hiền phạm tội “vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”

Chủ đề   RSS   
  • #265091 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 19/2006/hs-gđt ngày 04-7-2006 về vụ án nguyễn thị hiền phạm tội “vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”

    Số hiệu

    19/2006/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số19/2006/hs-gđt ngày 04-7-2006 về vụ án nguyễn thị hiền phạm tội “vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”

    Ngày ban hành

    04/07/2006

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ19/2006/HS-GĐT NGÀY 04-7-2006 VỀ VỤ ÁN NGUYỄN THỊ HIỀN 
    PHẠM TỘI “VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HOÁ QUA BIÊN GIỚI”

     

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    ...

    Ngày 04 tháng 7 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Nguyễn Thị Hiền sinh năm 1949; trú tại tổ 4, khu 3, phường Trần Phú, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; trình độ văn hoá:10/10; là công nhân nghỉ hưu; con ông Nguyễn Văn An và bà Phạm Thị Thìn (đã chết); có chồng và có 3 con (lớn sinh năm 1972, nhỏ sinh năm 1983); bị bắt tạm giam từ ngày 20-6-2004 đến ngày 17-9-2004.

    (Trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Thị Nghinh và Phạm Thị Mai).

    NHẬN THẤY:

    Ngày 02-6-2004, A Thành (người Trung Quốc) gọi điện thoại di động cho Nguyễn Thị Hiền nhờ vận chuyển 20kg vàng từ Trung Quốc vào Việt Nam, hứa sẽ trả công 1.000.000 đồng. Hiền đã thuê Phạm Thị Mai và Nguyễn Thị Nghinh vận chuyển số hàng trên và hứa sẽ trả công mỗi người 100.000 đồng. Mai và Nghinh giấu vàng trong người, khi đi qua cửa khẩu Bắc Luân thì bị công an tỉnh Quảng Ninh phát hiện, thu giữ trong người Mai 9,57845kg vàng, trị giá 1.886.699.000 đồng và trong người Nghinh 9,98225kg vàng, trị giá 1.963.924.000 đồng.

    Quá trình điều tra chưa xác định được người Trung Quốc có tên là A Thành.    

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 446/HSST ngày 30-12-2004, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp dụng khoản 3 và khoản 4 Điều 154; điểm g và điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Thị Hiền 48 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”, phạt bị cáo 5.000.000 đồng; xử phạt Phạm Thị Mai, Nguyễn Thị Nghinh mỗi bị cáo 30 tháng tù đều về tội “Vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới” và áp dụng thêm Điều 60 Bộ luật hình sự cho Nguyễn Thị Nghinh được hưởng án treo.

    Ngày 31-12-2004, bị cáo Nguyễn Thị Hiền và Phạm Thị Mai có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

    Tại Quyết định kháng nghị số 02 ngày 05-01-2005, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đề nghị Toà án cấp phúc thẩm không cho Nguyễn Thị Nghinh được hưởng án treo. Ngày 24-02-2005, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có công văn số01/KSĐT-KSXXST-HS rút kháng nghị nêu trên.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 431/HSPT ngày 26-4-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị Nghinh; áp dụng thêm điểm b và điểm s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, giảm hình phạt cho Nguyễn Thị Hiền xuống còn 
    30 tháng tù về tội “vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”; áp dụng 
    thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Thị Mai 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 36 tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

    Tại Quyết định kháng nghị số14/2006/HS-TK ngày 21-4-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 431/HSPT ngày 26-4-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần quyết định đối với bị cáo Nguyễn Thị Hiền; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định.

     Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi tại phiên toà, thì việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết án Nguyễn Thị Hiền và các bị cáo về tội “vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” là đúng pháp luật.

    Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng. Các bị cáo đã vận chuyển với số lượng gần 20kg vàng từ Trung Quốc vào Việt Nam với trị giá 3.850.623.000 đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 5 năm đến 10 năm. Trong vụ án này Nguyễn Thị Hiền là vai trò chính, việc Toà án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự “chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” là không đúng và xử phạt Nguyễn Thị Hiền 4 năm tù dưới mức khởi điểm của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự là còn nhẹ. Toà án cấp phúc thẩm áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cũng là không đúng vì bị cáo nộp tiền phạt không được coi là tự nguyện bồi thường hoặc khắc phục hậu quả và giảm hình phạt cho bị cáo còn 30 tháng tù ngang bằng các bị cáo khác với vai trò thấp hơn trong vụ án là sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cần huỷ quyết định của bản án hình sự phúc thẩm đối với Nguyễn Thị Hiền để xét xử phúc thẩm lại giữ nguyên quyết định hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Hiền. Đối với Phạm Thị Mai, Toà án cấp phúc thẩm áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự với nhận xét bố chồng là liệt sỹ, chồng chết là lao động chính đang nuôi con trong khi con 19 tuổi để cho bị cáo hưởng án treo là không nghiêm. Tuy Mai bị Hiền rủ rê và là người vận chuyển thuê, Chánh án Toà án nhân dân tối cao không kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần quyết định đối với Mai, nhưng việc Toà án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo là chưa bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự, cần rút kinh nghiệm nghiêm khắc đối với Hội đồng xét xử phúc thẩm để tránh những sai sót tương tự.          

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 431/HSPT ngày 26-4-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về phần quyết định đối với bị cáo Nguyễn Thị Hiền; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Các quyết định khác của bản án hình sự phúc thẩm không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ một phần bản án phúc thẩm:

    Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định mức hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ một phần bản án phúc thẩm:

    Sai sót trong việc vận dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

     

     
    3258 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận