Số hiệu
|
19/2005/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số19/2005/ds-gđt ngày 22-6-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”
|
Ngày ban hành
|
22/06/2005
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số19/2005/DS-GĐT
NGÀY 22-6-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP HợP ĐồNG
MUA BÁN TÀI SảN”
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
...
Ngày 22 tháng 6 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đào Xuân Yết sinh năm 1945; trú tại: 97 Xô Viết Nghệ tĩnh, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
Bị đơn: Bà Đặng Thị Minh Hương sinh năm 1961 và ông Nguyễn Văn Định sinh năm 1951; cả hai bị đơn cùng trú tại: thôn Mỹ Yên, xã Đức Minh, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Trương Thị Lý sinh năm 1957 và ông Nguyễn Văn Sương sinh
năm 1950; cả hai cùng trú tại: thôn Mỹ Hoà, xã Đức Minh, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông.
- Bà Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1968 và ông Trương Hùng Oanh sinh năm 1963; cả hai cùng trú tại: thôn Thanh Lâm, xã Đức Minh, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông.
Nhận thấy:
Tháng 3-1999 ông Đào Xuân Yết và bà Đặng Thị Minh Hương có thoả thuận miệng về việc mua bán phân bón. Từ ngày 23-3-1999 đến ngày 14-5-1999 bà Đặng Thị Minh Hương đã nhận của ông Đào Xuân Yết 452 tấn phân bón, trị giá 1.059.519.000 đồng, nhưng bà Đặng Thị Minh Hương chưa thanh toán cho ông Đào Xuân Yết.
Ngày 08-6-1999 ông Đào Xuân Yết và bà Đặng Thị Minh Hương cùng ký hợp đồng mua bán với nội dung:
- Bên B sau khi ký hợp đồng mua bán phân bón với bên A thì được nhận hàng theo yêu cầu.
- Bên B thanh toán cho bên A bằng chuyển khoản hoặc bằng tiền mặt và thanh toán chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày nhận hàng.
- Bên A căn cứ vào mức độ tiêu thụ của bên B để chiết khấu như sau:
+ Tiêu thụ từ 01 tỷ đến 02 tỷ chiết khấu 1% trên doanh số bán.
+ Tiêu thụ từ 02 tỷ đến 05 tỷ chiết khấu 1,5% trên doanh số bán.
Phần chiết khấu được tính vào cuối năm, khi bên B thanh toán đúng hạn; nếu bên B nợ quá hạn theo quy định thì bên A sẽ không chiết khấu phần dư nợ quá hạn đó và tính lãi suất 1,5% một tháng, đồng thời buộc thanh toán nợ.
Cùng ngày 08-6-1999, hai bên đối chiếu công nợ xác định: Bà Đặng Thị Minh Hương đã nhận của ông Đào Xuân Yết số lượng hàng là 452 tấn, trị giá 1.059.519.000 đồng, bà Đặng Thị Minh Hương cam kết thanh toán trong thời hạn là 10 ngày.
Để đảm bảo cho việc trả nợ, ngày 14-10-1999 bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định ký hợp đồng thế chấp tài sản cho ông Đào Xuân Yết có xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk (nay là tỉnh Đăk Nông), bao gồm: 2.480 m2 đất thổ cư; 200 m2 đất rẫy cà phê trồng năm 1993; 19.472 m2 đất rẫy cà phê trồng năm 1995; 950 m2 đất trồng màu.
Đến ngày 30-6-1999 bà Đặng Thị Minh Hương đã thanh toán cho ông Đào Xuân Yết 84.640.000 đồng, hai bên xác định bà Hương còn nợ 974.879.000 đồng, bắt đầu tính lãi từ ngày 14-6-1999.
Ngày 31-7-1999 bà Đặng Thị Minh Hương đã thanh toán cho ông Đào Xuân Yết 119.300.000 đồng, hai bên xác định bà Hương còn nợ tiền vốn và lãi là 857.444.000 đồng.
Ngày 31-8-1999 bà Đặng Thị Minh Hương đã thanh toán cho ông Đào Xuân Yết 39.100.000 đồng, còn nợ vốn và lãi là 819.319.000 đồng.
Ngày 08-10-1999 bà Đặng Thị Minh Hương làm giấy khất nợ với số nợ là 659.116.000 đồng và cam kết từ ngày 08-10-1999 đến 20-12-1999 sẽ thanh toán 459.116.000 đồng, còn 200.000.000 đồng đến ngày 30-12-1999 phải thanh toán dứt điểm.
Từ cuối tháng 02-2000 bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định đã bán một số tài sản mà trước đây đã thế chấp cho ông Đào Xuân Yết; cụ thể như sau:
Ngày 28-02-2000, bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định sang nhượng cho bà Nguyễn Thị Phương và ông Trương Hùng Oanh một phần đất thổ cư diện tích 372 m2 (6m x 62m) với giá 33 cây vàng. Bà Nguyễn Thị Phương và ông Trương Hùng Oanh đã thanh toán cho bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định 30 cây vàng.
Ngày 02-6-2000, bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định sang nhượng cho bà Trương Thị Lý và ông Nguyễn Văn Sương một phần đất thổ cư diện tích 310 m2 (5m x 62m) với giá 30 cây vàng. Bà Trương Thị Lý và ông Nguyễn Văn Sương đã thanh toán đủ 30 cây vàng cho bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định.
Do bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định không thực hiện việc trả nợ đúng như đã cam kết trong giấy khất nợ ngày 08-10-1999, nên
ngày 12-02-2001, ông Đào Xuân Yết có đơn khởi kiện yêu cầu bà Đặng Thị Minh Hương, ông Nguyễn Văn Định phải thanh toán 456.080.000 đồng tiền gốc và lãi suất theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản hoà giải ngày 05-3-2001 ông Đào Xuân Yết và bà Đặng Thị Minh Hương thống nhất:
- Bà Đặng Thị Minh Hương trả cho ông Yết 551.856.800 đồng, trong đó tiền gốc là 456.080.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 01-01-2000 đến ngày 05-3-2001 là 95.776.800 đồng.
- Sau khi bà Đặng Thị Minh Hương thanh toán cho ông Đào Xuân Yết 150.000.000 đồng, thì ông Đào Xuân Yết sẽ tiến hành làm thủ tục tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Phương và bà Trương Thị Lý.
Tại quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 11/QĐHGT ngày 20-3-2001, Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk (nay là tỉnh Đăk Nông) quyết định: Công nhận sự thoả thuận của các đương sự như sau:
- Bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định có nghĩa vụ thanh toán cho ông Đào Xuân Yết số tiền 551.027.992 đồng.
- Bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định phải chịu 9.518.568 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Trả lại cho ông Đào Xuân Yết 5.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo phiếu số 007126 ngày 14-02-2001.
Tại quyết định số 417 ngày 09-7-2003,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 11/QĐHGT ngày 20-3-2001 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk với nhận định: Nội dung của quyết đinh công nhận sự thoả thuận của các đương sự không đúng với nội dung của biên bản hoà giải thành ngày 05-3-2001.
Tại quyết định số 12/DS ngày 17-12-2003, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã huỷ toàn bộ quyết định số 11/QĐHGT ngày 20-3-2001 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil; giao hồ sơ vụ án cho Toà dân sự Toà kán nhân dân tỉnh Đăk Lăk giải quyết theo trình tự sơ thẩm.
Sau khi có quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
số 11/QĐHGT ngày 20-3-2001 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil bà Đặng Thị Minh Hương, ông Nguyễn Văn Định đã thanh toán cho ông Đào Xuân Yết 201.200.000 đồng, nên ông Đào Xuân Yết yêu cầu bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định thanh toán số tiền còn lại là (551.027.992 đồng - 201.200.000 đồng) = 349.827.992 đồng và lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật.
Bà Đặng Thị Minh Hương yêu cầu được trừ số tiền 201.200.000 đồng vào nợ gốc 456.080.000 đồng và chấp nhận trả số nợ còn lại cùng với lãi suất theo quy định của pháp luật.
Bà Đặng Thị Minh Hương và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Lý và bà Nguyễn Thị Phương yêu cầu ông Đào Xuân Yết phải tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà gia đình bà Đặng Thị Minh Hương đã sang nhượng cho gia đình bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương. Lý do của yêu cầu này là sau khi có quyết định của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk bà Nguyễn Thị Phương đã đưa bà Đặng Thị Minh Hương 129.800.000 đồng; bà Trương Thị Lý đã đưa cho bà Đặng Thị Minh Hương 85.000.000 đồng để bà Đặng Thị Minh Hương thanh toán cho ông Đào Xuân Yết như nội dung biên bản hoà giải thành ngày 05-3-2001 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2004/DSST ngày 09-6-2004, Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã quyết định:
1- Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đào Xuân Yết.
2- Buộc bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định phải trả cho ông Đào Xuân Yết số tiền 325.462.851 đồng, trong đó số tiền gốc là 208.279.562 đồng; số tiền lãi là 117.183.283 đồng.
3- Bác yêu cầu của bà Đặng Thị Minh Hương, bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương về việc buộc ông Đào Xuân Yết phải tách bìa đỏ diện tích đất mà bà Đặng Thị Minh Hương đã sang nhượng cho bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương.
Bà Nguyễn Thị Phương, bà Trương Thị Lý có quyền khởi kiện đối với bà Đặng Thị Minh Hương để thu hồi số tiền 214.814.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật.
4- Về án phí: Bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định phải nộp 12.763.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ số tiền 9.519.568 đồng án phí đã nộp ngày 20-6-2001, còn phải nộp 2.943.432 đồng.
Hoàn trả lại cho ông Đào Xuân Yết 5.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 007126 ngày 14-02-2001 tại Đội thi hành án huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
Ngày 16-6-2004 bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định có đơn kháng cáo yêu cầu chỉ tính lãi đến ngày 05-3-2001.
Cùng ngày 16-6-2004 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Lý và bà Nguyễn Thị Phương có đơn kháng cáo xin được hưởng quyền lợi theo lời hứa của ông Đào Xuân Yết là tách quyền sử dụng đất mà bà Đặng Thị Minh Hương đã bán cho các bà lấy tiền trả cho ông Đào Xuân Yết.
Ngày 22-6-2004 ông Đào Xuân Yết có đơn kháng cáo với nội dung:
- Tính đến ngày 03-8-2000 bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định còn nợ 456.080.000 đồng, trong đó 424.916.000 đồng là tiền gốc chưa tính lãi từ ngày 14-6-1999 theo thoả thuận và 31.164.000 là tiền lãi của 234.200.000 đồng đã thanh toán sau khi bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định làm giấy khất nợ ngày 08-10-1999; do đó, số nợ gốc còn lại 424.916.000 đồng phải được tính lãi từ ngày 14-6-1999 đến ngày 09-6-2004 (ngày xét xử sơ thẩm) với mức lãi suất 1,5% một tháng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 67 ngày 04-11-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:
- Chấp nhận kháng cáo của ông Đào Xuân Yết, bà Đặng Thị Minh Hương, ông Nguyễn Văn Định.
- Bác kháng cáo của bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương.
1- Buộc bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định phải trả cho ông Đào Xuân Yết tiền nợ gốc là 208.280.000 đồng, tiền lãi là 44.135.253 đồng, tổng cộng là 252.415.253 đồng.
2- Bác yêu cầu của bà Đặng Thị Minh Hương, bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương về việc buộc ông Đào Xuân Yết phải tách bìa đỏ diện tích đất mà bà Hương đã sang nhượng cho bà Lý, bà Phương.
Bà Nguyễn Thị Phương, bà Trương Thị Lý có quyền khởi kiện đối với bà Đặng Thị Minh Hương để thu hồi số tiền 214.814.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật.
3- Bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 10.572.500 đồng được trừ 9.519.500 đồng đã nộp tại Phòng thi hành án, còn phải nộp 1.053.000 đồng.
Ông Đào Xuân Yết, bà Đặng Thị Minh Hương, ông Nguyễn Văn Định không phải nộp án phí phúc thẩm.
Hoàn trả lại cho ông Đào Xuân Yết 5.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 007126 ngày 14-02-2001 tại Đội thi hành án huyện Đăk Mil và 50.000 đồng tiền dự phí kháng cáo nộp ngày 15-6-2004.
Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị Minh Hương, ông Nguyễn Văn Định tiền dự phí kháng cáo là 50.000 đồng nộp ngày 22-6-2004 theo biên lai số 007252.
Bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương phải nộp án phí dân sự phúc thẩm mỗi người là 50.000 đồng (đã nộp theo biên lai số 007253, 007254
ngày 22-6-2004 của Phòng thi hành án tỉnh Đăk Nông).
Sau khi xét xử phúc thẩm ông Đào Xuân Yết có đơn khiếu nại với nội dung:
- Toà phúc thẩm tính tiền lãi từ ngày 03-8-2000 đến ngày 05-3-2001 (ngày hai bên hoà giải thành) là thiệt hại đến quyền lợi của ông.
- Yêu cầu tính lãi từ ngày 14-6-1999 (ngày đến hạn thanh toán sau khi đối chiếu công nợ) đến ngày 09-6-2004 (ngày xét xử sơ thẩm).
Tại quyết định số 22/KNDS ngày 12-4-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã quyết định kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 67 ngày 04-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại.
xét thấy:
1- Theo hướng dẫn tại điểm b mục 1 Phần I của Thông tư liên tịch
số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính “Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản” thì:... “Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền mà người có nghĩa vụ phải thanh toán họ còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm”. Trong vụ án này Toà án cấp phúc thẩm chỉ tính lãi đến khi hai bên hoà giải thành (ngày 05-3-2001) là không đúng mà phải tính lãi đến khi xét xử sơ thẩm (ngày 09-6-2004) mới đúng.
2- Khi giải quyết lại vụ án cấp phúc thẩm cần xác minh làm rõ việc chốt nợ lần cuối cùng hai bên thoả thuận như thế nào về số nợ, thời hạn trả nợ và lãi suất để xác định thời điểm tính lãi và mức lãi suất chậm trả. Nếu khi chốt nợ lần cuối cùng hai bên không thoả thuận lãi suất chậm trả, thì lãi suất chậm trả được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự, nhưng không được cao hơn 1,5% một tháng vì ông Đào Xuân Yết chỉ yêu cầu tính lãi 1,5% một tháng và tiền lãi phải tính trên số nợ gốc.
3- Theo lời khai của bà Trương Thị Lý và bà Nguyễn Thị Phương thì sau khi có quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 11/QĐHGT ngày 20-3-2001 của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk, bà Nguyễn Thị Phương đã đưa bà Đặng Thị Minh Hương 129.800.000 đồng và bà Trương Thị Lý đã đưa cho bà Đặng Thị Minh Hương 85.000.000 đồng, để bà Đặng Thị Minh Hương thanh toán cho ông Đào Xuân Yết. Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ vấn đề này đã bác yêu cầu của bà Đặng Thị Minh Hương, bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương về việc buộc ông Đào Xuân Yết phải tách bìa đỏ đối với các diện tích đất mà bà Đặng Thị Minh Hương đã sang nhượng cho bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương là không có căn cứ. Do cần phải huỷ toàn bộ bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật và do quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về vấn đề này bị kháng cáo, cho nên Toà án cấp phúc thẩm phải xét kháng cáo của họ và cần xác minh làm rõ bà Nguyễn Thị Phương, bà Trương Thị Lý có đưa tiền cho bà Đặng Thị Minh Hương để thanh toán cho ông Đào Xuân Yết hay không? nếu có thì phải giải quyết yêu cầu của bà Trương Thị Lý, bà Nguyễn Thị Phương trong cùng vụ án này mới bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
Quyết định:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 67 ngày 04-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản giữa nguyên đơn là ông Đào Xuân Yết với bị đơn là bà Đặng Thị Minh Hương và ông Nguyễn Văn Định; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Lý, ông Nguyễn Văn Sương, bà Nguyễn Thị Phương và ông Trương Hùng Oanh.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án phúc thẩm:
1. Toà án cấp phúc thẩm xác định sai thời hạn tính lãi đối với số tiền chậm trả;
2. Cần xác minh, làm rõ việc chốt nợ lần cuối cùng giữa các bên về số tiền nợ, thời hạn thanh toán nợ và lãi suất;
3. Cần xác minh, làm rõ lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc đã đưa tiền cho bị đơn để thanh toán cho nguyên đơn sau khi có quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự của Toà án nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Lăk.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:
Thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật về tính lãi suất đối với số tiền chậm trả.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 04:58:26 CH