Quyết định giám đốc thẩm số 17/hđtp-ds ngày 25-4-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264802 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 17/hđtp-ds ngày 25-4-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà đất”

    Số hiệu

    17/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số17/hđtp-ds ngày 25-4-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà đất”

    Ngày ban hành

    25/04/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số17/HĐTP-DS

    NGÀY 25-4-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP HợP ĐồNG 
    TặNG CHO NHÀ ĐấT”
     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 25 tháng 4 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Trần Mỹ Khanh, sinh năm 1955, trú tại: số 3 Wahestilad Dr It Hacan 1 USA (Hoa Kỳ), Uỷ quyền cho ông Phạm Ngọc Trung trú tại: 25/1A Trương Định, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh đại diện.

    Bị đơn: Ông Mã Tài, sinh năm 1963, trú tại: 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1.     Ông Mã út, sinh năm 1957

    2.     Bà Huỳnh Quần Khanh sinh năm 1958

    Cả hai trú tại: 1330 Unruhave Phila - PA19111 USA (Hoa Kỳ). Ông Mã út, bà Quần Khanh uỷ quyền cho ông Mã Tài đại diện.

    Nhận thấy:

    Căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, do ông Huỳnh Chí (cha của bà Trần Mỹ Khanh) đứng tên thuê. Năm 1989 ông Huỳnh Chí mất, bà Trần Mỹ Khanh tiếp tục đứng tên hợp đồng thuê với Nhà nước. Năm 1991 bà Trần Mỹ Khanh đứng tên mua hoá giá căn nhà trên và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đối với căn nhà này.

    Bà Trần Mỹ Khanh trình bày: Sau khi bà (Trần Mỹ Khanh) được đứng tên mua hoá giá căn nhà 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, do căn nhà bị xuống cấp nên bà đã bỏ tiền ra xây mới lại toàn bộ căn nhà trên. Năm 1996 bà (Trần Mỹ Khanh) được bảo lãnh xuất cảnh sang Hoa Kỳ. Trước khi đi bà bàn với em rể là ông Mã út (chồng bà Huỳnh Quần Khanh - em ruột bà Trần Mỹ Khanh) để nhờ ông Mã Tài (là em ruột ông Mã út) đứng tên giùm căn nhà nêu trên để sau này có chủ trương Việt kiều sở hữu nhà thì chuyển lại cho bà. Sau khi bàn bạc ông Mã Tài đồng ý, ngày 30-9-1996 bà (Trần Mỹ Khanh) đã làm hợp đồng tặng cho ông Mã Tài căn nhà trên.

    Năm 2001 bà (Trần Mỹ Khanh) trở về căn nhà trên thì ông Mã Tài không cho bà vào nhà, nên bà (Trần Mỹ Khanh) đã làm đơn khởi kiện xin huỷ hợp đồng tặng cho.

    Ông Mã Tài trình bày: Năm 1991 bà Trần Mỹ Khanh đứng tên hoá giá, còn tiền hoá giá do ông Mã út và bà Huỳnh Quần Khanh bỏ ra. Năm 1994 vợ chồng ông Mã út và bà Huỳnh Quần Khanh bỏ tiền xây dựng lại toàn bộ căn nhà như hiện nay.

    Trước khi được bảo lãnh xuất cảnh, bà Trần Mỹ Khanh đem toàn bộ giấy tờ sở hữu nhà cầm cho người khác. Do cần tiền chuộc lại giấy tờ nhà, ông có đưa cho Mã út 10.000 USD để mang đi chuộc. Sau đó ông Mã út làm thủ tục tặng nhà cho ông, có sự đồng ý của bà Trần Mỹ Khanh. Thực chất ông đã mua căn nhà trên của vợ chồng ông Mã út và bà Huỳnh Quần Khanh với giá 42.000 USD. Nay ông Mã Tài không đồng ý theo yêu cầu của bà Trần Mỹ Khanh.

    Ngày 17-9-2001 bà Trần Mỹ Khanh có đơn khởi kiện xin huỷ hợp đồng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1388/DSST ngày 26-8-2003 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    1. Huỷ hợp đồng tặng cho nhà số4474/HĐ-TCN lập ngày 30-9-1996 tại Phòng công chứng số 2 giữa hai bên cho bà Trần Mỹ Khanh và bên nhận là ông Mã Tài đối với căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5.

    2. Huỷ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở 
    số 11580/2001 ngày 26-6-2001 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Mã Tài được quyền sở hữu căn nhà 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5.

    3. Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số2012/QĐ-ADBPKCTT ngày 16-11-2001 kê biên căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5.

    4. Buộc ông Mã Tài phải giao lại căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5 và các giấy tờ có liên quan đến căn nhà nói trên cho bà Trần Mỹ Khanh.

    5. Bác yêu cầu của ông Mã Tài về yêu cầu cho rằng ông đã mua căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, nhưng trên giấy tờ thì ghi là hợp đồng tặng cho.

    6. Bà Trần Mỹ Khanh được quyền liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý nhà, đất để được xem xét giải quyết.

    7. Ông Mã Tài, ông Mã út, bà Huỳnh Quần Khanh, bà Trần Mỹ Khanh nếu có tranh chấp về tiền mua bán nhà, tiền hoá giá nhà, tiền xây dựng nhà, tiền nợ thì có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

    án phí dân sự sơ thẩm 20.600.000 đồng do ông Mã Tài chịu.

    Hoàn lại tiền nộp án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Mỹ Khanh theo biên lai thu số 025440 ngày 3-10-2001 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 3-9-2003 ông Mã Tài có đơn kháng cáo yêu cầu công nhận quyền sở hữu căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh cho ông.

    Ngày 5-9-2003 bà Huỳnh Quần Khanh có đơn kháng cáo yêu cầu công nhận ông Mã Tài là chủ sở hữu căn nhà 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh với lý do vợ chồng ông bà (Mã út và Huỳnh Quần Khanh) là chủ sở hữu căn nhà trên và vợ chồng ông bà đã bán căn nhà 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh với giá 42.000USD cho ông Mã Tài.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 384/DSPT ngày 24-12-2003 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định sửa bản án sơ thẩm và xử:

    1. Bác yêu cầu của bà Trần Mỹ Khanh về việc huỷ hợp đồng tặng cho căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh đối với ông Mã Tài.

    2. Giải toả quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số2012/QĐ-ADBPKCTT ngày 16-11-2001 kê biên căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5.

    3. án phí dân sự sơ thẩm 20.600.000 đồng bà Trần Mỹ Khanh phải nộp, được khấu trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 025440 ngày 3-10-2001.

    án phí dân sự phúc thẩm ông Tài, bà Quần Khanh không phải chịu. Hoàn tiền tạm ứng án phí kháng cáo cho ông Mã Tài, bà Huỳnh Quần Khanh lần lượt theo các biên lai thu tiền số 2454 ngày 4-9-2003 và biên lai 2465 ngày 5-9-2003 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 23-6-2004 ông Phạm Ngọc Trung đại diện cho bà Trần Mỹ Khanh có đơn khiếu nại cho rằng: Hội đồng xét xử đã không xem xét đầy đủ các chứng cứ có trong hồ sơ như lời khai nhận của ông Mã Tài tại cơ quan công an và tại phiên toà sơ thẩm, biên bản hoà giải giữa bà Trần Mỹ Khanh và ông Mã Tài, các nhân chứng... nên đã công nhận giao dịch giả tạo, không phải là giao dịch thể hiện đúng ý chí của mỗi bên.

    Tại công văn trao đổi số3607/CV-VKSTC-V5 ngày 20-12-2004 Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng: bản án dân sự phúc thẩm số 384/DSPT 
    ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử bác yêu cầu của bà Trần Mỹ Khanh về việc huỷ hợp đồng tặng cho nhà 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh với ông Mã Tài là chưa có cơ sở vững chắc. Để thận trọng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 5) thấy cần phải xem xét lại vụ án để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.

    Tại Quyết định số08/KN-DS ngày 18-02-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm số 384/DSPT ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 384/DSPT ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 1388/DSST ngày 26-8-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại sơ thẩm.

    xét thấy:

    Căn nhà số 195 Phùng Hưng, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh do bà Trần Mỹ Khanh đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu. Năm 1996 do được người thân bảo lãnh đi xuất cảnh nên ngày 30-6-1996 bà Trần Mỹ Khanh đã lập hợp đồng tặng cho ông Mã Tài căn nhà trên và ông Mã Tài đã được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Sau khi bà Trần Mỹ Khanh từ Mỹ về thì phát sinh tranh chấp. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Mỹ Khanh cho rằng căn nhà trên có nguồn gốc của ông Huỳnh Chí (bố bà Mỹ Khanh) đứng tên thuê, sau khi bố bà mất (năm 1989) bà tiếp tục đứng tên hợp đồng thuê với Nhà nước, bỏ tiền mua hoá giá và xây mới lại toàn bộ căn nhà trên. Năm 1996 trước khi đi xuất cảnh sang Hoa Kỳ, bà Trần Mỹ Khanh nhờ ông Mã Tài đứng tên giùm căn nhà trên và chuyển tên sở hữu cho ông Mã Tài dưới hình thức tặng cho nhà. Còn ông Mã Tài là người được tặng cho thì không thừa nhận là được tặng cho mà khai là bà Trần Mỹ Khanh là chị ruột của bà Huỳnh Quần Khanh nên bà Trần Mỹ Khanh làm đại diện đứng tên xin mua hoá giá căn nhà trên, còn tiền mua hoá giá và xây dựng mới toàn bộ căn nhà là của vợ chồng ông Mã út và bà Huỳnh Quần Khanh; bà Trần Mỹ Khanh còn đem toàn bộ giấy tờ sở hữu nhà cầm cho người khác, ông có đưa 10.000USD cho ông Mã út đem đi chuộc; ngoài ra, bà Trần Mỹ Khanh còn nợ tiền của ông Mã út (em ruột ông); thực tế ông đã mua căn nhà trên của vợ chồng ông Mã út và bà Huỳnh Quần Khanh với giá 42.000USD và đã giao đủ tiền cho vợ chồng ông Mã út. Tại phiên toà sơ thẩm bà Huỳnh Quần Khanh (em ruột bà Trần Mỹ Khanh) cũng có lời khai: Bà Trần Mỹ Khanh lập hợp đồng tặng cho ông Mã Tài căn nhà 195 Phùng Hưng chỉ là hợp thức cho việc mua bán nhà giữa vợ chồng ông Mã út, bà Huỳnh Quần Khanh và ông Mã Tài. Như vậy, các quan hệ mua bán, hoá giá, xây dựng lại nhà... có liên quan với nhau trong việc giải quyết vụ án, nhưng Toà án cấp sơ thẩm tách ra và không giải quyết trong cùng một vụ án là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của các bên đương sự. Toà án cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng tặng cho cũng là chưa có căn cứ vững chắc và chưa phù hợp với lời khai của các bên đương sự. Do đó cần phải huỷ cả bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án về cho Toà án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ, xác minh làm rõ việc ai là người bỏ tiền mua hoá giá và xây dựng nhà, ai là chủ sở hữu đích thực; việc mua bán hoặc tặng cho diễn ra như thế nào v.v... từ đó mới có căn cứ để kết luận thực tế khách quan là mua bán nhà đất hay tặng cho nhà đất để giải quyết toàn diện và đúng đắn vụ án.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    - Huỷ bản án phúc thẩm số 384/DSPT ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 1388/DSST ngày 26-8-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà đất giữa nguyên đơn là bà Trần Mỹ Khanh và bị đơn là ông Mã Tài.

    - Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Các quan hệ mua bán, hoá giá, xây dựng lại nhà có liên quan với nhau và cần được xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Toà án cấp sơ thẩm tách các quan hệ này và không xem xét trong cùng vụ án là không đúng;

    2. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm về việc công nhận hợp đồng tặng cho chưa phù hợp với các chứng cứ có trong vụ án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    Thiếu sót trong việc thu thập, xác minh và đánh giá chứng cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 03:55:34 CH
     
    2887 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận