Quyết định giám đốc thẩm số 13/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp di sản thừa kế”

Chủ đề   RSS   
  • #264796 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 13/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp di sản thừa kế”

    Số hiệu

    13/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số13/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp di sản thừa kế”

    Ngày ban hành

    25/02/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     


    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số13/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP DI SảN THừA Kế”

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ....

    Ngày 25 tháng 2 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Chị Trần Thiếu Khanh, sinh năm 1960

    Trú tại: Nhà số 139 phố Phan Đình Phùng, khóm 9, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    Bị đơn: Bà Lưu Thoại Sum, sinh năm 1940

    Trú tại: Nhà số 211 Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Anh Vương Nhật Hùng, trú tại: 272 VIEWNOUNT AVETORONTOCANADA.

    2. Anh Trần Diệu, trú tại: Nhà số 196 Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    3. Anh Trần Vinh, trú tại: Nhà số 139 phố Phan Đình Phùng, khóm 9, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (bị bệnh tâm thần bẩm sinh).

    4. Chị Lưu Bích Xuyên, trú tại: Nhà số 163 Trần Hưng Đạo, khóm 8, phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    5. Chị Lưu Gia Thuận, trú tại: Nhà số 32/12 khóm 5, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    6. Anh Lưu Quốc Thanh.

    7. Anh Lưu Quốc Oai.

    8. Chị Lưu Gia Lợi.

    9. Chị Trương Thị Phương.

    Trú tại: Nhà số 211 Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    Nhận thấy:

    ông Vương Cẩm Mang kết hôn với và Trần Thị Ngọc năm 1948 có 4 con chung là Vương Nhật Hùng, Trần Diệu, Trần Vinh (bị tâm thần bẩm sinh), Trần Thiếu Khanh. Năm 1959 ông Mang kết hôn với bà Lưu Thoại Sum có 5 con chung là Lưu Bích Xuyên, Lưu Gia Thuận, Lưu Quốc Thanh, Lưu Quốc Oai, Lưu Gia Lợi. Ông Mang và hai vợ là bà Ngọc, bà Sum đều ở chung, cùng làm kinh tế gia đình. Trước năm 1975, cả gia đình sống tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976 bán nhà tại thành phố H�� Chí Minh để chuyển về sống tại căn nhà số 211 đường Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau là nhà của bà Lý Thị Triệu - mẹ đẻ của bà Ngọc. Ngày 04-4-1978, bà Triệu lập giấy chuyển nhượng nhà cho con là bà Ngọc. Năm 1979, anh Vương Nhật Hùng xuất cảnh sang Canada. Năm 1983, chị Trần Thiếu Khanh lấy chồng ở riêng. Năm 1985, anh Trần Diệu mua nhà ở riêng và bà Ngọc, anh Trần Vinh về sống cùng anh Diệu (sau này anh Vinh chuyển về sống cùng gia đình chị Khanh). Căn nhà do bà Sum cùng các con là anh Thanh, chị Lợi, anh Oai, chị Phương (vợ anh Oai) quản lý, sử dụng. Quá trình quản lý, sử dụng nhà, bà Sum có tôn tạo, sửa chữa nhà vào các năm 1995 và 2002.

    Năm 1995 bà Ngọc chết không để lại di chúc.

    Ngày 14-5-1998, ông Mang lập di chúc giao lại toàn bộ nhà đất nêu trên cho chị Trần Thiếu Khanh. Năm 1999, ông Mang chết.

    Chị Khanh khởi kiện chia thừa kế, yêu cầu lấy lại toàn bộ nhà đất nêu trên.

    Phía bị đơn (bà Sum) thừa nhận nhà đất trên mua của bà Lý Thị Triệu nhưng bằng tiền bán nhà của gia đình tại thành phồ Hồ Chí Minh, nên cả gia đình đều sống chung tại nhà đất này, đồng thời không công nhận di chúc của ông Mang và yêu cầu chia thừa kế theo luật.

    Anh Vương Nhật Hùng, Trần Diệu có đơn khước từ thừa kế và xin giao lại cho chị Trần Thiếu Khanh nhận phần thừa kế này.

    Theo biên bản định giá ngày 25-7-2003 (BL 126-134) thì nhà, đất tại số 211 đường Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau có giá trị: Nhà 37.586.900 đồng, đất diện tích 78,92 m2 giá 197.300.000 đồng, tổng cộng 234.886.900 đồng. Kích thước bề ngang của diện tích đất là 2,65m và 2,80m.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 15/DSST ngày 22-12-2003, Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

    1. Buộc bà Lưu Thoại Sum, Lưu Quốc Thanh, Lưu Quốc Oai, Lưu Gia Lợi, Trương Thị Phương (vợ anh Oai) hiện đang ở trong căn nhà số 211, khóm 6, phường 2, đường Lý Thái Tôn, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau giao trả căn nhà và đất thừa kế nêu trên cho chị Trần Thiếu Khanh. Chị Trần Thiếu Khanh có quyền đi kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng phần đất nêu trên theo pháp luật quy định.

    2. Buộc Chị Trần Thiếu Khanh phải hoàn trả cho bà Lưu Thoại Sum giá trị nhà và đất mà bà Sum được hưởng là 78.295.633 đồng.

    3. Chị Trần Thiếu Khanh có trách nhiệm đại diện quản lý phần thừa kế của anh Trần Vinh trị giá bằng tiền là 22.618.737 đồng (vì hiện chị Khanh đang nuôi dưỡng anh Trần Vinh).

    4. Bà Lưu Thoại Sum và các anh chị hiện đang ở trong căn nhà nêu trên được quyền lưu cư 90 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực. Sau đó bàn giao nhà và đất cho chị Trần Thiếu Khanh.

    5. Đối với số tiền mà chị Trần Thiếu Khanh phải trả, kể từ ngày bà Sum có đơn yêu cầu thi hành án, khi bản án có hiệu lực, nếu chị Khanh chậm thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm phần lãi suất theo mức lãi quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

    6. án phí có giá ngạch miễn cho các đương sự. Chị Trần Thiếu Khanh và bà Lưu Thoại Sum mỗi người phải nộp 50.000 đồng án phí sơ thẩm dân sự.

    Sau khi xử sơ thẩm, ngày 06-01-2004, bà Lưu Thoại Sum có đơn kháng cáo xin được nhận hiện vật là căn nhà để ở vì bà không có chỗ ở nào khác; bà đã cùng các con sống ổn định tại căn nhà này từ năm 1976 đến nay.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 115 ngày 19-4-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    1. Chấp nhận kháng cáo của bà Lưu Thoại Sum, sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm số 15/DSST ngày 22-12-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau.

    Giao cho bà Lưu Thoại Sum được quyền sở hữu căn nhà số 211, khóm 6, phường 2, đường Lý Thái Tôn, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Bà Sum được quyền liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để lập giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà theo quy định của pháp luật đối với căn nhà này.

    Bà Lưu Thoại Sum có nghĩa vụ hoàn trả cho chị Trần Thiếu Khanh số tiền 156.590.366 đồng (trong đó có phần thừa kế của anh Trần Vinh bị bệnh tâm thần mà chị Khanh đại diện nhận là 22.618.737 đồng).

    Đối với số tiền mà bà Sum phải trả cho chị Khanh, kể từ ngày chị Khanh có đơn xin thi hành án mà bà Sum chậm trả thì bà Sum phải chịu thêm phần lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

    2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục phát sinh hiệu lực pháp luật.

    3. Bà Lưu Thoại Sum không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số 012225 ngày 06-01-2004 của Phòng thi hành án tỉnh Cà Mau.

    Sau khi sử phúc thẩm. chị Trần Thiếu Khanh khiếu nại xin được nhận hiện vật là căn nhà vì chị đang phải nuôi ông Trần Vinh bị bệnh tâm thần bẩm sinh.

    Ngày 21-7-2004, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau có công văn số 30 đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên.

    Ngày 29-9-2004, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau có công văn kiến nghị số 02 đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm để giữ y án sơ thẩm về phần phân chia hiện vật là căn nhà số 211 Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

    Ngày 29-12-2004, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có Quyết định số 120/KNDS kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên Toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quan điểm nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Xét thấy:

    Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều xác định căn nhà số 211 Lý Thái Tôn, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau là tài sản chung của ông Vương Cẩm Mang, bà Trần Thị Ngọc, bà Lưu Thoại Sum đồng thời công nhận di chúc ngày 14-5-1998 của ông Vương Cẩm Mang là hợp pháp đối với phần tài sản ông Vương Cẩm Mang được hưởng theo pháp luật để quyết định cho chị Trần Thiếu Khanh được hưởng toàn bộ phần di sản thừa kế của bà Trần Thị Ngọc và ông Vương Cẩm Mang để lại là đúng pháp luật.

    Qúa trình giải quyết vụ án, tại biên bản định giá ngày 23-7-2003, Hội đồng định giá đã căn cứ vào Quyết định số25/2003/QĐ-UB ngày 08-7-2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau để xác định giá trị quyền sử dụng đất trên có căn nhà đang tranh chấp là 197.300.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm công nhận việc định giá của Hội đồng định giá là chưa đúng vì mức giá trên không phản ánh đúng giá trị tài sản tranh chấp, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các thừa kế không được chia hiện vật. Trong trường hợp này cần phải xác định giá trị quyền sử dụng đất ở, nhà ở theo giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương.

    Chị Trần Thiếu Khanh và bà Lưu Thoại Sum đều có nguyện vọng được chia hiện vật là nhà đất, trong khi thực tế chị Trần Thiếu Khanh đang phải nuôi dưỡng anh Trần Vinh bị bệnh tâm thần bẩm sinh và là người được hưởng và quản lý 2/3 tài sản (phần của ông Mang và bà Ngọc để lại), còn bà Sum chỉ được hưởng 1/3 tài sản, cho nên cần xem xét yêu cầu chia hiện vật của chị Khanh. Toà án cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm trong khi không tiến hành điều tra, xác minh chính xác tình trạng, nhu cầu về nhà ở của các bên đương sự (đặc biệt là nhu cầu về nhà ở của bà Lưu Thoại Sum có thật sự cấp bách hơn chị Trần Thiếu Khanh không?) mà đã quyết định cho bà Lưu Thoại Sum được sở hữu toàn bộ căn nhà là không thoả đáng.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; 
    khoản 1 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 115 ngày 19-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm 
    số 15/DSST ngày 22-12-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau đã xét xử vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa chị Trần Thiếu Khanh với bà Lưu Thoại Sum.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã công nhận mức giá của Hội đồng định giá là không đúng vì mức giá này không phản ánh đúng giá trị tài sản tranh chấp;

    2. Toà án cấp phúc thẩm không xác minh, làm rõ nhu cầu về chỗ ở của các bên đương sự khi quyết định giao toàn bộ căn nhà tranh chấp cho bị đơn là không thoả đáng.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    Thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 03:49:59 CH
     
    3291 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận