Quyết định giám đốc thẩm số 12/2008/KDTM-GĐT ngày 29-8-2008 về vụ án tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty

Chủ đề   RSS   
  • #264110 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 12/2008/KDTM-GĐT ngày 29-8-2008 về vụ án tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty

    Số hiệu

    12/2008/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số12/2008/KDTM-GĐT ngày 29-8-2008 về vụ án tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty

    Ngày ban hành

    29/08/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Quyết định giám đốc thẩm số12/2008/KDTM-GĐT ngày 29-8-2008 về vụ án tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

                ….

                Ngày 29 tháng 8 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty gồm:

                Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Quyết; trú tại thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

                Bị đơn: Công ty TNHH 27-7; trụ sở Dốc Sặt. xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

               

    NHẬN THẤY:

                Theo đơn khởi kiện đề ngày 25-8-2005, lời trình bày của ông Nguyễn Ngọc Quyết trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu, chứng cứ do ông Quyết xuất trình có trong hồ sơ vụ án thấy:

                Ngày 02-8-1999, ông Nguyễn Ngọc Quyết được góp vốn  trở thành thành viên của Công ty TNHH 27-7  theo Quyết định số18/QĐ-CT do Giám đốc Công ty TNHH 27-7 (BL.24.T1).

                Ngày 09-8-1999, ông Nguyễn Ngọc Quyết được bổ nhiệm là phó Giám đốc Công ty TNHH 27-7 (BL. 23-22.T1).

                Vốn góp vào Công ty của ông Quyết bao gồm:

                - Tiền mặt: 134.876.000 đồng (bằng 4 phiếu thu vào các ngày 26-7-1999, 15-02-2001 và ngày 04-02-2002);

                -  250.000.000 đồng tiền mặt Công ty TNHH 27-7 vay của ông Quyết bằng “Biên bản giao nhận tiền vay” ngày 05-01-2001 và thế chấp bằng toàn bộ tài sản của Công ty trên cơ sở “ Biên bản họp hội nghị các thành viên về việc bổ sung vốn điều lệ” ngày 29-10-1999 (BL. 13,15.T1);

               

                -Khu nhà xưởng mái tôn rộng hơn 200m2 trên diện tích đất 261m thuê 50 đã nộp thuế cho Nhà Nước trị giá 110.000.000 đồng, thực hiện theo Quyết định ngày 29-10-2002 của Giám đốc Công ty (BL. 14.T1)

                -Ứng chi 126.000.000 đồng để ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu một ngôi nhà dân gian Việt Nam bằng gỗ sang Malaysia giữa Công ty TNHH 27-7 với công ty Sejagat Harta Sdn Bhd Malaysia (BL.154.T1).

                Ngày 20-01-2003, Giám đốc Công ty TNHH 27-7 Đàm Kim ra Quyết định số18/QĐ-CT chấm dứt tư cách thành viên Công ty TNHH 27-7 Bắc Ninh của ông Nguyễn Ngọc Quyết (BL.20,92.T1).

                Ông Nguyễn Ngọc Quyết yêu cầu:

                -Hủy bỏ Quyết định số18/QĐ-CT ngày 28-10-2003 của Giám đốc Công ty TNHH 27-7 của Giám đốc Công ty TNHH 27-7, phục hồi toàn bộ quyền lợi thành viên Công ty của ông Nguyễn Ngọc Quyết tại Công ty TNHH 27-7; bồi thường những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, về thu nhập bị mất do quyết định sai trái này gây ra;

                -Buộc Giám đốc Công ty TNHH 27-7 Bắc Ninh phải thanh toán số tiền còn nợ(gốc và lãi) trong công trình Malaysia và các khoản nợ theo cam kết, cụ thể gồm: 126.000.000 đồng chi phí khai thác công trình Malaysia và hoàn trả  250.000.000 đồng mà ông Giám đốc Đàm Kim đã vay cho Công  ty;

                -Chia lợi nhuận của Công ty cho các thành viên theo tỷ lệ vốn góp.

                Ông Đàm Kim Giám đốc Công ty TNHH 27-7 xác nhận ông Nguyễn Ngọc Quyết là thành viên của Công ty TNHH 27-7 từ ngày 02-8-1999 và được phân công hoạt động  trong lĩnh vực xây dựng, ông Quyết có góp vốn  vào Công ty là 34.876.000 đồng thể hiện tại phiếu thu ngày 26-7-1999 và hai phiếu thu ngày 04-02-2002. Riêng phiếu thu ngày 15-02-2001 với số tiền nộp 100.000.000 đồng là hoàn toàn không có thực.

                Về công trình Malaysia, cả ông Kim và ông Quyết đều có công khai thác. Khi xong phần thủ tục ban đầu, chuẩn bị đến giai đoạn thi công thì ông Quyết bị bắt và bị Tòa án quân sự Quân khu I xử phạt hai năm tù về tội “Làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức”, thu lại thẻ thương binh. Do đây là lĩnh vực kinh doanh của ông Quyết, nên Công ty TNHH 27-7 đã ký hợp đồng với ông Nguyễn Hữu Chừng (bố đẻ của ông Quyết) để tiếp tục thi công đến hoàn thiện công trình. Năm 2004, giữa Công ty TNHH 27-7  và ông Chừng đã quyết toán xong. Tổng giá trị công trình là 882.000.000 đồng, phần chi phí của ông Chừng kê khai và đã lĩnh là 678.000.000 đồng, phần ông Kim chi phí là 187.662.000 đồng. Ngoài phần nộp thuế cho Nhà nước và nộp cho Công ty 1,5%, số lãi còn lại giữa ông Chừng và ông Kim đã thanh toán xong, không ai thắc mắc gì. Việc ông Quyết đòi số tiền chi phí khai thác 126.000.000 đồng là không có căn cứ, nếu ông Quyết xuất trình được chứng cứ từ hơp lệ Công ty sẽ thanh toán đầy đủ.

                Về số tiền 250.000.000 đồng ông Quyết kiện đòi Công ty với lý do cho Công ty vay và trực tiếp giao tiền cho ông Kim ngày 05-01-2001 là không có thực, các chứng từ mà ông Quyết đưa ra như “Biên bản giao nhận tiền vay” và  “ Biên bản ghi nhớ” điều là giả. “Biên bản giao nhận tiền vay” thì đã có giám định xác định rõ không phải là chữ ký của  ông Kim, còn “ Biên bản ghi nhớ” thì tại thời điểm 17-12-2002 ông Kim đang ở miền Nam để ký hợp đồng với Cơ sở gỗ mỹ nghệ Hồng Dâng (Vũng Tàu) và Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh đồ gỗ mỹ nghệ Nam Long(thành phố Hồ Chí Minh).

                Về việc ông Quyết đòi chia lợi nhuận của Công ty, đây là yêu cầu trái với quy định của Công ty TNHH 27-7; theo quy định này thì ở Công ty TNHH 27-7 mỗi người hoạt động kinh doanh độc lập trên một lĩnh vực và tự hạch toán lỗ lãi – lời

    ăn , lỗ chịu chỉ phải đóng thuế qua Công ty và phải nộp cho Công ty 1,5%  tổng giá trị hợp đồng để chi phí hành chính, số tiền này là rất nhỏ. Vì vậy, Công ty TNHH 27-7 chưa bao giờ có việc chia lợi nhuận cho các thành viên.

    Do ông Quyết vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty TNHH 27- 7, nên tất cả các thành viên Công ty đã nhất trí ra nghị quyết và Giám đốc Công ty đã ra Quyết định số18/QĐ-CT ngày 28-10-2003 chấm dứt tư cách thành viên Công ty của ông Nguyễn Ngọc Quyết (BL.92.T1).

    Vì vậy Công ty TNHH 27-7 yêu cầu Tòa án bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Quyết.

    Ngày 23-12-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã xét xử vụ án và ra bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số05/2005/KDTM-ST (BL. 325-320.T1).

    Không nhất trí với bản án sơ thẩm, ngày 26-12-2005 ông Nguyễn Ngọc Quyết có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

    Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số19/2007/KDTM-PT ngày 19, 22-01-2007, Toà phúc thẩm Toàn án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xử:

    “Hủy bản án kinh tế sơ thẩm số05/2005/KDTM-ST ngày 23-12-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về vụ án tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Ngọc Quyết với bị đơn là Công ty TNHH 27-7 do ông Đàm Kim- Giám đốc Công ty đại diện.

    Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giải quyết sơ thẩm lại vụ án”.

    Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 17-7-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã xử:

    “1. Hủy Quyết định số 18 / QĐ-CT ngày 28-10-2003 “về việc chấm dứt tư cách thành viên Công ty TNHH 27-7 do ông Đàm Kim Giám đốc thay mặt cho Công ty TNHH 27-7 ký.

    2. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Quyết đòi Công ty TNHH 27-7 phải trả 126.000.000 đồng tiền khai thác công trình Malaysia.

    3. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Quyết đòi kiện Công ty 27-7 phải trả 250.000.000 đồng mà ông Quyết cho rằng Công ty vay thông qua ông Đàm Kim ngày 05-01-2001.

    4. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Quyết kiện đòi bồi thường thiệt hại 694.730.000 đồng về danh dự, nhân phẩm, về chi phí theo kiện, về mất thu nhập vì không có cơ sở.

    5. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Quyết đòi chia lợi nhuận đối với các hoạt động kinh doanh của các thành viên khác trong Công ty TNHH 27-7 và số tiền trích lại 1,5% lợi nhuận để chi phí hành chính trong Công ty” …

    Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 23 và 27-7-2007, ông Nguyễn Ngọc Quyết có đơn kháng cáo (BL.175-170.T3).

    Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số243/2007/KDTM-PT ngày 06-12-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xử:

    “Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Quyết, sửa bản án sơ thẩm như sau:

    “1.1. Hủy Quyết định số 18/Q Đ-CT ngày 28-10-2003 của Giám đốc Công ty TNHH 27-7, nay là công ty 27-7 Bắc Ninh về việc chấm dứt tư cách thành viên công ty27-7 của ông Nguyễn Ngọc Quyết.

    1.2 .Công ty 27-7 Bắc Ninh có trách nhiệm bổ sung đăng ký danh sách thành viên và sổ thành viên của Công ty đối với ông Nguyễn Ngọc Quyết.

    1.3. Buộc Công ty 27-7 Bắc Ninh phải khôi phục các quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Ngọc Quyết trong Công ty 27-7 Bắc Ninh.

    2. Buộc Công ty 27-7 Bắc Ninh phải thanh toán và trả nợ cho ông Nguyễn Ngọc Quyết 376.000.000 đồng.

    3. Ghi nhận sự tự nguyện rút kháng cáo về khoản tiền chia lợi nhuận với Công ty và khoản tiền đòi Công ty phải bồi thường danh dự, nhân phẩm cho ông Nguyễn Ngọc Quyết…”

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 14-12-2007 Công ty TNHH 27-7 có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Tại Quyết định số08/KN-VKSTC-V12 ngày 29-4-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số243/2007/KDTM-PT ngày 06-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội (phần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về khoản tiền 126.000.000 đồng chi phí khai tác công trình Malaysia và 250.000.000 đồng tiền Công ty vay của ông Quyết) đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 17-7-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giao lại hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm , đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cáo giữ nguyên quan điểm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nêu trong kháng nghị.

    XÉT THẤY:

    1. Về khoản tiền 126.000.000 đồng chi phí khai thác công trình Malaysia ông Nguyễn Ngọc Quyết đòi Công ty TNHH 27-7 phải thanh toán:

    Trong suốt quá trình tố tụng, cả ông Nguyễn Ngọc Quyết, ông Đàm Kim và các thành viên khác của Công ty 27-7 đều xác nhận phương thức  hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty 27-7 là: Mỗi thành viên được phân công hoạt động trong một lĩnh vực và phải tự lo toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Khi phát sinh doanh số thì phải nộp tiền thuế qua Công ty và phải nộp vào quỹ của Công ty 1,5% để sử dụng chi tiêu vào các hoạt động hành chính của Công ty. Lãi còn lại thành viên đó được hưởng, lỗ thì phải tự chịu. Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xác minh, làm rõ phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh trên của Công ty TNHH 27-7 có được quy định bằng văn bản hay không? Nếu có thì được quy định tại văn bản nào? Các quy định này có phù hợp với quy định của pháp luật không? Để làm căn cứ giải quyết yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Quyết đối với khoản tiền đã chi phí vào công trình Malaysia là có sai sót.

    Trong suốt quá trình tố tụng ông Đàm Kim thay mặt Công ty TNHH 27-7 luôn xác nhận công trình nhà gỗ dân gian xuất khẩu sang Malaysia thuộc lĩnh vực  hoạt động của ông Nguyễn Ngọc Quyết, cả ông Kim và ông Quyết đều có công khai thác được công trình này. Nếu phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh trên của Công ty TNHH 27-7 không trái với quy định của pháp luật và được áp dụng vào việc  hạch toán công trình Malaysia, thì yêu cầu thanh toán 126.000.000 đồng tiền chi phí khai thác công trình Malaysia của ông Nguyễn Ngọc Quyết là quan hệ giữa cá nhân ông Quyết với ông Đàm Kim ( hai người có công khai thác và được hưởng lợi từ công trình này) hay là quan hệ giữa ông Quyết  với Công ty? Tòa án cấp  phúc thẩm chưa xác minh, làm rõ quan hệ tranh chấp là quan hệ nào đã buộc Công ty TNHH 27-7 có nghĩa vụ thanh toán 126.000.000 đồng chi phí khai thác công trình Malaysia cho ông Nguyễn Ngọc Quyết là chưa đủ căn cứ vững chắc.

    Theo hợp đồng Công ty TNHH 27-7 ký với phía Malaysia thì tổng giá trị công trình này là 95.748 USD tương đương với 1.481.508.804 đồng theo tỷ giá là 15.472VND/USD. Việc thi công công trình này Công ty TNHH 27-7 ký hợp đồng thuê ông Nguyễn Hữu Chừng ( bố đẻ của ông Quyết, không phải là thành viên Công ty) làm và Công ty đã thanh lý hợp đồng này với ông Chừng. Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm không đưa ông Chừng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nên không xác định được khi tham gia thi công công trình này ông Chừng có đại diện cho quyền lợi của ông Quyết không? Trong số tiền ông Chừng được nhận đã có 126.000.000 đồng chi phí khai thác công trình của ông Quyết hay chưa …?

    Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu này của ông Quyết đều thiếu căn cứ thuyết phục.

    2. Về khoản tiền 250.000.000 đồng ông Nguyễn Ngọc Quyết khai báo cho công ty TNHH 27-7 vay thông qua Giám đốc Công ty Đàm Kim:

    Cả nguyên đơn và bị đơn đều xuất trình nhiều chứng cứ để bảo vệ mình, phản bác chứng cứ của bên kia; các chứng cứ của bên này đều bị bên kia cho là giả mạo, cụ thể:

    - Biên bản giao nhận tiền vay đề ngày 05-01-2001 do nguyên đơn xuất trình (BL.205.T1) thì bị đơn cho là giả mạo, qua giám định xác định không phải là chữ ký của ông Đàm Kim - đại diện của bị đơn (BL.251.T1).

    - Bản ghi nhớ đề ngày 17-12-2002 do nguyên đơn xuất trình (BL.87.T2) thì bị bị đơn cho là giả mạo, qua giám định xác định đúng là chữ ký của ông Đàm Kim , đại diện của bị đơn và con dấu là của Công ty TNHH 27-7 (BL.70-73.T2) Ông Đàm Kim một mặt công nhận chữ ký là của mình, con dấu là của Công ty nhưng vẫn cho là tài liệu giả hoặc được viết trên giấy đã được ký và đóng dấu sẵn chứ không có việc vay tiền như nội dung ghi trong văn bản này. Đồng thời, ông Đàm Kim còn nại ra lý do thời gian bản ghi nhớ này ông Kim đang ở Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh để ký hợp đồng với các đối tác làm ăn (xuất trình hai bản hợp đồng ngày 17-12-2002 (BL.83, 83.T2), kết quả xác minh của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo yêu cầu ủy thác của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh cũng xác nhận tại thời điểm đó ông Đàm Kim đang công tác ở hai thành phố trên (BL. 127-126.T3)

      - Văn bản làm việc đề ngày 01-3-2002 tại Trại tạm giam của Quân khu I do bị đơn xuất trình (BL.78.T2), có chữ ký của nguyên đơn nhưng nguyên đơn lại cho là giả và xuất trình chứng cứ là xác nhận của Trại tạm giam T82-Quân khu I, chứng minh ngày 01-3-2003 không có người của Công ty TNHH 27-7 đến trại giam làm việc với nguyên đơn (BL.81.T2); có hai nội dung và hai kiểu chữ viết khác nhau thể hiện trên văn bản làm việc  ngày 01-02-2003 này: Sát phần chữ ký của ông Quyết ở góc dưới bên phải là chữ ký của ông Quyết với nội dung là lời nhắn cho bố về việc đưa một thuốc, quần áo lót vào trại cho ông Quyết và làm đơn bảo lãnh cho ông Quyết gửi đến Viện kiểm sát; phần trên của văn bản này là chữ viết của ông Đàm Kim (BL.37.T2) có nội dung là kết quả làm việc giữa Công ty với ông Quyết về các khoản tiền có liên quan giữa ông Quyết với Công ty.

    - Ngoài ra, đại diện bị đơn còn xuất trình biên bản làm việc giữa Công ty TNHH 27-7 với ông Quyết ngày 28-2-2003 tại Trại tạm giam T82 của Quân khu I (BL.79.T3); xác nhận của Trại tạm giam T82 Quân khu I có việc Công ty TNHH 27-7 đến trại giam làm việc với bị can Nguyễn Ngọc Quyết vào khoảng cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm 2003 (BL81.T3); Biên bản làm việc giữa Công ty TNHH 27-7 với ông Nguyễn Ngọc Quyết ngày 21-12-2002 có chữ ký của ông Nguyễn Ngọc Quyết, xác định không có các khoản tiền mà ông Quyết yêu cầu (BL.78.T3)

    Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nêu trên (chủ yếu dựa vào “Bản ghi nhớ” ngày 17-12-2002), không tiến hành trưng cầu giám định thêm các chứng cứ do các đương sự xuất trình, không xác minh lại kết quả ủy thác điều tra tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh, cũng như không xác minh lại các xác nhận của Trại tạm giam, nên kết luận của Tòa án cấp phúc thẩm về khoản tiền này là chưa đủ căn cứ vững chắc.

    3. Các nội dung khác của bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số243/2007/KDTM-PT ngày 06-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội không bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị và không có liên quan đến nội dung bị kháng nghị Hội đồng giám đốc thẩm không xem xét.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291;  khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bán án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 17-7-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số243/2007/KDTM-PT ngày 06-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về phần: “2. Buộc Công ty 27-7 Bắc Ninh phải thanh toán và trả nợ cho ông Nguyễn Ngọc Quyết 376.000.000 đồng” và phần “4. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: ông Nguyễn Ngọc Quyết phải nộp 21.894.600 đồng được trừ 10 triệu đồng tiền tạm ứng Biên lai 002294 ngày 29-8-2005 và 200 ngàn đồng tạm ứng dự phí phúc thẩm biên lai ngày 28-12-2005 tại Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh, còn phải nộp 11.694.600 đồng.

    - Công ty TNHH 27-7 Bắc Ninh phải nộp 14.280.000 đồng.

    - Ông Nguyễn Ngọc Quyết không phải nộp án phí phúc thẩm

    Hoàn trả ông Quyết 200.000 đồng đã nộp dự phí kháng cáo tại biên lai số 002332 ngày 23-7-2007 tại Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

    Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn xin thi hành án, bên phải thi hành án phải trả lãi đối với khoản tiền chưa thi hành án theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án”.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho nhân dân tỉnh Bắc Ninh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    3. Các quyết định khác của bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số243/2007/KDTM-PT ngày 06-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội không bị hủy tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy một phần:

    Các Tòa án không xác minh, làm rõ phương thức hoạt động của Công ty (bị đơn)nên đã buộc Công ty (bị đơn) phải bồi thường cho nguyên đơn là không đúng.

     

     
    4106 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận