Quyết định giám đốc thẩm số 11/2005/HĐTP-HS Ngày 24-6-2005 Về vụ án Lưu Hồng Thành phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”

Chủ đề   RSS   
  • #264820 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 11/2005/HĐTP-HS Ngày 24-6-2005 Về vụ án Lưu Hồng Thành phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”

    Số hiệu

    11/2005/HĐTP-HS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số11/2005/HĐTP-HS Ngày 24-6-2005 Về vụ án Lưu Hồng Thành phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”

    Ngày ban hành

    24/06/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    Quyết định giám đốc thẩm số11/2005/HĐTP-HS

    Ngày 24-6-2005 Về vụ án Lưu Hồng Thành phạm tội

    “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 24 tháng 6 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Lưu Hồng Thành (tức Lưu Hồng Sần) sinh năm 1967; đăng ký nhân khẩu thường trú tại Đông Qua Linh, xã Xèo Thầu, huyện Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; dân tộc: Hán; quốc tịch: Trung Quốc; trình độ văn hoá: tiểu học; không có nghề nghiệp; con ông Lưu An Lượng (đã chết) và bà Trần Hưng Chân (78 tuổi); năm 1991 bị Toà án nhân dân thành phố Côn Minh, Trung Quốc xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; bị bắt tạm giam 
    ngày 14-7-2003.

    Nhận thấy:

    Hồi 7 giờ sáng ngày 14-7-2003 lực lượng cảnh sát phòng chống ma tuý Công an tỉnh Lào Cai phối hợp với Công an huyện Mường Khương bắt giữ Lưu Hồng Thành đang vận chuyển trái phép chất ma tuý tại xóm Mới, xã Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai; thu giữ được tang vật là 01 gùi tre đã cũ bên trong đựng 01 can nhựa màu trắng đã cũ chứa 11.900 ml dung dịch màu vàng, 01 chai nhựa bên trong chứa 650 ml dung dịch màu vàng, 01 chai nhựa bên trong chứa 250 ml dung dịch màu vàng; 03 hộp giấy, mỗi hộp đựng 09 ống thuốc nước thuỷ tinh, trên mỗi ống có in ba chữ Trung Quốc và dòng chữ 2 ml: 10mg 20000401, tổng số là 27 ống chứa 54 ml dung dịch màu vàng; tổng cộng là 12.854 ml; 01 áo khoác kẻ đen, xanh, vàng đã cũ; 01 sổ ghi số điện thoại chữ Trung Quốc; 01 Giấy chứng minh nhân dân do Công an Trung Quốc cấp, có dán ảnh Lưu Hồng Thành; 01 Giấy thông hành do Trung Quốc cấp mang tên Lưu Hồng Thành.

    Tại Bản kết luận giám định số 2060/C21 (P8) ngày 18-7-2003, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: dung dịch trong các mẫu A1, A2, A3, A4, A5, A6 gửi giám định đều là dung dịch Diazepam (Diazepam nằm trong danh mục các chất ma tuý).

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/HSST ngày 12-7-2004, Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai áp dụng điểm g khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự, xử phạt Lưu Hồng Thành (tức Lưu Hồng Sần) tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

    Ngày 18-7-2004 Lưu Hồng Thành (tức Lưu Hồng Sần) kháng cáo xin giảm hình phạt.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số1734/HS-PT ngày 25-10-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    Tại Quyết định số03/2005/HS-TK ngày 01-3-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hình sự phúc thẩm số1734/HS-PT ngày 25-10-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 50/HSST ngày 12-7-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    xét thấy:

    Tại cơ quan điều tra Lưu Hồng Thành chỉ có 02 lời khai nhận tội, trong các lời khai còn lại và tại phiên toà sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm, Thành đều kêu oan. Các lý do kêu oan của Lưu Hồng Thành là: ngày 13-7-2003 Thành từ Trung Quốc sang Việt Nam có đến nhà anh Lục Chính Thăng ở xóm Mới, xã Mường Khương, huyện Mường Khương chơi và ăn cơm cùng gia đình anh Thăng, buổi tối Thành cùng anh Thăng đến Công an huyện Mường Khương đăng ký thủ tục tạm trú qua đêm rồi về nhà anh Thăng ngủ. Sáng ngày 14-7-2003 khi gia đình anh Lục Chính Thăng mua bún về, Thành ra phía sau nhà anh Thăng hái rau thơm về ăn với bún, khi đang đứng hái rau thơm thì bị công an ập tới bắt, thu giữ giấy tờ tuỳ thân trong túi áo ngực rồi dẫn Thành đến chỗ có gùi tre, bỏ các thứ giấy tờ tuỳ thân của Thành vào gùi tre bắt Thành phải nhận. Thành còn khai, quá trình lấy lời khai tại Công an huyện Mường Khương, Thành không được nghe phiên dịch lại.

    Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án về diễn biến vụ án, quá trình bắt giữ Lưu Hồng Thành, thu giữ chất ma tuý, thu giữ giấy tờ tuỳ thân của Thành còn nhiều mâu thuẫn, không thống nhất; cụ thể như sau:

    Về việc bắt giữ Lưu Hồng Thành:

    Theo Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang thì Lưu Hồng Thành bị bắt khi đang cầm giấu 01 gùi tre vào bờ rào nhà anh Hoàng Thanh Khải ở xóm Mới, xã Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Còn các anh Trần Hải Đường (cán bộ Công an tỉnh Lào Cai), Nguyễn Trọng Tuân và Lùng Dung Thắng (cán bộ Công an huyện Mường Khương) là những người trực tiếp bắt giữ Lưu Hồng Thành có lời khai khác nhau về việc bắt giữ Thành:

    - Theo các bản Báo cáo của anh Trần Hải Đương thì Thành bị bắt sau khi đút chiếc gùi tre và bờ rào nhà anh Khải, vạch rào chui qua, khoác gùi lên vai.

    - Anh Nguyễn Trọng Tuân có 02 bản Báo cáo, trong bản Báo cáo 
    ngày 09-11-2003 anh Tuân khai Thành khoác lên lưng 01 gùi tre đến gần chỗ tổ công tác phục kích, anh hô đứng lại, Thành giật mình buông một quai gùi ra khỏi vai định chạy thì bị bắt. Tại bản Báo cáo ngày 27-4-2004 anh Tuân lại khai Thành đeo 01 chiếc gùi trên lưng xé bờ rào cúc tần chui xuống, anh hô đứng lại thì Thành giật mình buông một quai gùi ra định chạy thì bị bắt giữ.

    - Anh Lùng Dung Thắng có 02 bản Báo cáo: trong bản Báo cáo ngày 10-11-2003 anh Thắng khai Thành khoác lên lưng 01 chiếc gùi tre đến gần chỗ anh đang phục kích, anh Tuân hô đứng lại thì Thành giật mình buông một quai gùi ra khoác vai định chạy thì bị bắt. Tại bản Báo cáo khác anh lại khai thấy Thành đút gùi qua rào và vạch rào chui qua, đeo gùi thì anh Tuân hô đứng lại, Thành giật mình buông một quai gùi ra định chạy thì bị bắt giữ.

    Những người chứng kiến là các anh Lê Thanh Bình và Trần Văn Vang cũng có lời khai khác nhau về diễn biến của việc bắt giữ Lưu Hồng Thành:

    - Tại cơ quan điều tra, anh Lê Thanh Bình có 03 lời khai, trong đó có 02 lời khai mô tả Thành đặt gùi tre xuống đất, vạch rào chui qua, sau đó khoác gùi lên vai thì bị bắt. Trong lời khai ngày 26-02-2004 anh Bình lại mô tả Thành vạch rào chui qua thì bị bắt, không có động tác đặt gùi xuống để vạch rào. Anh Nguyễn Anh Tuấn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương là người chứng kiến việc lập Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang có Bản báo cáo xác nhận anh Lê Thanh Bình có lời khai về việc thấy Lưu Hồng Thành chui qua hàng rào cây cúc tần ở phía sau Đài truyền hình, sau đó thò tay qua hàng rào, quay đầu lại kéo 01 gùi tre đưa lên vai thì bị công an bắt giữ.

    - Tại Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, anh Trần Văn Vang (phó Chủ tịch UBND xã Mường Khương, với tư cách là người chứng kiến) khai: Lưu Hồng Thành bị bắt quả tang khi đang đứng ở góc rào nhà anh Hoàng Thanh Khải ở khu vực Đài truyền hình, trên vai còn khoác 01 gùi tre. Trong bản Báo cáo ngày 17-7-2003, với tư cách là người trực tiếp tham gia bắt giữ Lưu Hồng Thành, anh Trần Văn Vang khai: Thành bị bắt khi từ trong bụi rậm đi ra, trên tay cầm 01 chiếc địu (gùi). Tại lời khai ngày 25-8-2003, anh Vang lại khai Thành bị bắt giữ khi đứng ở gần nơi cất giấu ma tuý khoản 01 m, chiếc gùi đựng ma tuý cách đối tượng khoản 01 m; cũng trong lời khai này có đoạn anh Vang lại khai là trước đó anh không nhìn rõ Thành có đeo gùi hay không, khi bắt được Thành rồi anh mới đến thì thấy gùi tre đựng ma tuý ở bên cạnh Thành.

    Anh Lê Văn Định là người phiên dịch tiếng Trung Quốc cho Lưu Hồng Thành tại Công an huyện Mường Khương khai: khi lập Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang tại Công an huyện Mường Khương thì Thành không nhận số tang vật mà công an thu giữ được là của Thành mà khai bị công an bắt khi đang ở gần chiếc gùi tre đó.

    Về việc thu giữ giấy tờ tuỳ thân của Lưu Hồng Thành:

    Theo các bản Báo cáo của các anh Nguyễn Trọng Tuân và Lùng Dung Thắng (cán bộ Công an huyện Mường Khương), Trần Hải Đường (cán bộ Công an tỉnh Lào Cai) thì khi khám xét gùi tre, ngoài ma túy còn thu được 01 mảnh giấy ép nhựa, 01 cuốn sổ viết chữ Trung Quốc và 01 cuốn sổ ghi các con số.

    Những người chứng kiến là các anh Lê Thanh Bình và Trần Văn Vang có lời khai khác nhau về việc thu giữ giấy tờ của Lưu Hồng Thành:

    - Tại Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, anh Lê Thanh Bình không có lời khai về việc thu giữ giấy tờ tuỳ thân của Lưu Hồng Thành. Trong lời khai ngày 25-8-2003 anh Bình lại khai khi khám xét gùi tre chỉ thu giữ được ma tuý, còn giấy tờ như Giấy thông hành và Giấy chứng minh nhân dân của Lưu Hồng Thành thì anh thấy ở túi áo ngực mà Thành đang mặc. Trong các lời khai sau này (các lời khai ngày 26-02-2004 và ngày 19-4-2004) anh Bình lại khai: khi khám xét gùi tre ngoài ma tuý còn thu giữ được 01 Giấy chứng minh nhân dân do Công an Trung Quốc cấp có ảnh của người bị bắt và 01 thẻ thông hành Trung Quốc.

    - Anh Trần Văn Vang, với tư cách là người chứng kiến, tại Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang không khai về việc có thu giữ giấy tờ tuỳ thân của Thành trong gùi tre. Trong bản Báo cáo ngày 17-7-2003, với tư cách là người trực tiếp tham gia bắt giữ Lưu Hồng Thành, anh Trần Văn Vang khai: khám xét gùi tre chỉ thấy có ma tuý. Tại lời khai ngày 25-8-2003 anh Vang lại khai: khám xét gùi tre ngoài ma tuý còn thu giữ được 01 áo bông bên trong có 01 sổ danh bạ điện thoại in chữ Trung Quốc kẹp 02 tờ giấy viết chữ Trung Quốc và 01 Giấy chứng minh nhân dân do Công an Trung Quốc cấp có ảnh của người bị bắt (Thành). Tại Công an huyện Mường Khương còn thu giữ trong người Thành 01 Giấy thông hành Trung Quốc.

    Theo các bản Báo cáo của anh Trần Xuân Hằng, cán bộ Công an huyện Mường Khương, thành viên của một trong những tổ công tác tham gia phục bắt Lưu Hồng Thành, thì khi khám xét gùi tre chỉ thu giữ được các can nhựa, chai nhựa và ống thuỷ tinh chứa dung dịch màu vàng (Diazepam).

    Lưu Hồng Thành khai: Thành sang Việt Nam ngày 13-7-2003 đến nhà anh Lục Chính Thăng chơi có ăn cơm cùng gia đình anh Thăng, buổi tối Thành cùng anh Thăng đến Công an Mường Khương đăng ký thủ tục tạm trú qua đêm rồi về nhà anh Thăng ngủ, nhưng cơ quan điều tra chỉ lấy lời khai của anh Lục Chính Thăng mà không lấy lời khai của vợ và con anh Thăng.

    Ngoài ra, khi lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, cơ quan điều tra mời anh Trần Văn Vang, Phó Chủ tịch, trưởng Công an xã Mường Khương, một trong những người trong tổ công tác trực tiếp phục bắt Lưu Hồng Thành làm người làm chứng; khi lấy lời khai của Thành tại Công an huyện, anh Lùng Dung Thắng, cán bộ công an và là người trực tiếp bắt giữ bị cáo lại chính là người phiên dịch là không đảm bảo sự khách quan trong việc điều tra vụ án.

    Các tài liệu về nhân thân của Lưu Hồng Thành còn nhiều điểm khác nhau, không thống nhất:

    - Về họ và tên của bị cáo: cơ quan điều tra xác định họ, tên của bị cáo là Lưu Hồng Thành, tại Cáo trạng và các bản án sơ thẩm, phúc thẩm thì bị cáo có tên là Lưu Hồng Thành (Lưu Hồng Sần), trong khi tại cơ quan điều tra Thành có nhiều lời khai về việc bị cáo có tên là Lưu Hồng Thành tức Lừu Hồng Sần.

    - Về ngày, tháng, năm sinh của bị cáo:

    Theo lý lịch bị can thì Lưu Hồng Thành sinh ngày 30-02-1967; bản dịch của giấy tờ tuỳ thân thu được của Thành cũng xác định Thành sinh ngày 30-02-1967. Theo các tài liệu do Công an Trung Quốc cung cấp thì Lưu Hồng Thành sinh tháng 10-1967. Tại Biên bản kết luận điều tra của Công an tỉnh Lào Cai thì Lưu Hồng Thành được xác định sinh tháng 10-1967. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định bị cáo sinh năm 1967, không ghi ngày, tháng sinh, trong khi tại các lời khai của mình, Lưu Hồng Thành nhiều lần khai sinh ngày 30-02-1967.

    - Về họ và tên của mẹ bị cáo:

    Theo lý lịch bị can thì mẹ của bị cáo là Trần Hưng Trấn. Theo các tài liệu do Công an Trung Quốc cung cấp thì mẹ của bị cáo có lúc là Trần Hưng Chân, có lúc là Trần Hưng Trân. Tại Bản kết luận điều tra của Công an tỉnh Lào Cai và tại Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai đều xác định mẹ của bị cáo là Trần Hưng Trấn. Bị cáo Lưu Hồng Thành có lời khai mẹ của bị cáo là Trần Hưng Trấn. Trong khi Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định mẹ của bị cáo là Trần Hưng Chân.

    Việc Lưu Hồng Thành bị bắt ngày 14-7-2004 tại xóm Mới, xã Mường Khương và khi bắt giữ Thành, cơ quan Công an thu giữ được ma tuý cùng các giấy tờ tuỳ thân là có thật, nhưng việc điều tra vụ án, thu thập và khẳng định các chứng cứ, các tình tiết về nhân thân của bị cáo còn có nhiều thiếu sót như đã phân tích ở trên; do đó cần huỷ bản án hình sự sơ thẩm và bản án hình sự phúc thẩm đối với Lưu Hồng Thành để điều tra lại.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

    Quyết định:

    Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số1734/HS-PT ngày 25-10-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm 
    số50/HS-ST ngày 12-7-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai đối với Lưu Hồng Thành (tức Lưu Hồng Sần) để điều tra lại; giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo thẩm quyền.

    Tiếp tục tạm giam Lưu Hồng Thành cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý lại vụ án.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm:

    1. Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án còn nhiều mâu thuẫn và không thống nhất;

    2. Việc xác định người làm chứng và người phiên dịch trong vụ án không đảm bảo tính khách quan.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc xác minh, thu thập chứng cứ;

    2. Thiếu sót trong việc xác định người làm chứng, cử người phiên dịch.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 04:23:45 CH
     
    2695 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận