Quyết Định Giám Đốc Thẩm Số 10/HĐTP-DS Ngày 25-2-2005 Về Vụ án “Đòi Nợ”

Chủ đề   RSS   
  • #264793 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết Định Giám Đốc Thẩm Số 10/HĐTP-DS Ngày 25-2-2005 Về Vụ án “Đòi Nợ”

    Số hiệu

    10/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết Định Giám Đốc Thẩm Số10/HĐTP-DS Ngày 25-2-2005 Về Vụ án “Đòi Nợ”

    Ngày ban hành

    25/02/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    Quyết Định Giám Đốc Thẩm Số10/HĐTP-DS

    Ngày 25-2-2005 Về Vụ án “Đòi Nợ”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 25 tháng 02 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên Toà giám đốc thẩm xét xử vụ án đòi nợ giữa các đương sự;

    Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Thành; trú tại Budapest 1161 Jozsyu 101 Hungari.

    Bà Hoàng Thị Tân, trú tại 116/1B đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 26, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ông Thành, bà Tân ủy quyền cho ông Đỗ Thanh Công, trú tại nhà số 306B, đường Bà Triệu, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đại diện.

    Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lý, trú tại nhà số 92, phố Cao Thắng, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Đông Xuân - Giám đốc Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung.

    Nhận thấy:

    Vợ chồng ông Đỗ Văn Thành và vợ chồng bà Nguyễn Thị Lý đều là thành viên của Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung. 

    Ngày 21-8-2000 vợ chồng bà Lý vay của vợ chồng ông Thành 30.000 USD, có làm giấy biên nhận. Sau khi ông Tuân (chồng bà Lý) mất, bà Lý xin rút vốn khỏi Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung để thành lập công ty riêng, vợ chồng ông Thành đã nhiều lần đòi nợ nhưng bà Lý không trả nên vợ chồng ông Thành khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết buộc bà Lý phải trả 30.000 USD tương đương với 460.000.000 đồng tiền Việt Nam.

    Theo bà Lý trình bầy thì giữa bà và ông Thành đã có sự thỏa thuận trừ số nợ của vợ chồng ông bà vào giá trị quyền sử dụng đất mà khi thành lập Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung vợ chồng bà góp vào công ty nên ngày 28-8-2001 ông Thành đã viết giấy xác nhận bà không phải trả nợ 30.000USD cho ông Thành nữa. Vì vậy, việc vợ chồng ông Thành đòi bà phải trả 30.000 USD là không đúng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 29-8-2003, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đỗ Văn Thành và bà Hoàng Thị Tân, tuyên bố hợp đồng vay ngoại tệ giữa vợ chồng ông Thành với vợ chồng bà Lý lập ngày 21-8-2000 là giao dịch dân sự vô hiệu. Bà Lý phải hoàn trả cho vợ chồng ông Thành 30.000 USD quy đổi bằng đồng Việt Nam là 460.000 đồng (bốn trăm sáu mươi triệu đồng) và giành quyền cho bà Lý được khởi kiện Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung về khoản nợ giá trị thuê quyền sử dụng đất để giải quyết bằng một vụ án khác.

    Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Lý kháng cáo cho rằng khu đất mà Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung đang đặt trụ sở, nhà xưởng là khu đất của chồng bà thuê trong 30 năm, nên khi bà xin rút vốn ra khỏi công ty thì ngày 28-8-2001 ông Thành và bà đã thỏa thuận Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập sẽ để lại toàn bộ đất đai, trụ sở nhà xưởng máy móc cho công ty, và bù lại bà Lý không phải trả nợ số tiền 30.000 USD vay của ông Thành nữa, nên bà không còn nợ số tiền của ông Thành.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 196/DSPT ngày 24-12-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: sửa bản án dân sự sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của ông Thành và bà Tân, bà Lý không phải trả ông Thành số tiền 30.000 USD tương ứng với 460.000.000 đồng. Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.

    Tại công văn số 46 ngày 7-4-2003, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề nghị kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

    Ngày 28-12-2003, ngày 27-2-2004 ông Đỗ Thanh Công đại diện cho ông Thành, bà Tân có đơn khiếu nại; ngày 22-4-2004 ông Đỗ Đông Xuân giám đốc Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung cũng có đơn khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm.

    Ngày 7-9-2004 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có quyết định 
    số75/DS-TK kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 196/DSPT ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Tại phiên Toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án phúc thẩm số 196/DSPT 
    ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    xét thấy:

    Bà Lý thừa nhận vợ chồng bà có vay vợ chồng ông Thành số tiền 30.000 USD nhưng không chấp nhận trả số tiền này. Bà Lý cho rằng khi thành lập Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung vợ chồng bà Lý đã dùng diện tích đất thuộc quyền sử dụng của Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập do chồng bà Lý làm giám đốc để góp vào công ty liên doanh, nay bà Lý tách ra để thành lập công ty riêng, bà Lý và ông Thành đã thỏa thuận là bà Lý không lấy lại phần đất mà Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung đang đặt trụ sở, nhà xưởng để trừ vào khoản nợ 30.000 USD mà vợ chồng bà Lý vay của vợ chồng ông Thành, nên bà Lý không còn nợ ông Thành nữa. Tuy nhiên, ông Thành không thừa nhận việc đối trừ nợ của bà Lý bằng giá trị quyền sử dụng đất.

    Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì nguồn gốc khu đất hiện Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung đặt trụ sở, văn phòng, nhà xưởng với diện tích 6459,5m2 tại 306B đường Bà Triệu, thành phố Thanh Hóa trước đây ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa giao cho Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập thuê để đặt trụ sở, văn phòng, nhà xưởng. Nhưng sau khi UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định thành lập Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung (QĐ số 2284 QĐ-GP/UB ngày 31-10-1998) thì ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cũng ra quyết định thu hồi diện tích đất trên để giao cho Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung thuê đặt trụ sở, văn phòng, nhà xưởng. Vì vậy, tại công văn số 701/KHĐT/KTĐN ngày 15-8-2001, Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Thanh Hóa đã xác nhận “trụ sở 306B đường Bà Triệu, thành phố Thanh Hóa thực chất về pháp lý không còn liên quan đến Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập”. Khi tham gia liên doanh, phần vốn góp của Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập được ghi nhận vào vốn pháp định của Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung gồm các máy móc, thiết bị, văn phòng. Ngoài ra, theo lời khai của ông Xuân, giám đốc Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung thì toàn bộ chi phí trong quá trình tiến hành thuê đất như chi phí đền bù cho Công ty 838, chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí thiết kế quy hoạch đều do Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung chi. Lời khai này của ông Xuân phù hợp với báo cáo kiểm toán tài chính năm 1999 của Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung. Đồng thời, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản của Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung từ tháng 5/1998 đến tháng 9/1998 đã được Công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán tính toán cộng vào vốn góp của Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập. Vì vậy, việc bà Lý khai ông Thành và bà thỏa thuận đối trừ khoản nợ 30.000 USD vào giá trị quyền sử dụng đất là không có cơ sở. Do đó, ông Thành khởi kiện yêu cầu bà Lý thanh toán số nợ 30.000 USD là có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thành, bà Tân, buộc bà Lý phải trả cho vợ chồng ông Thành 30.000 USD là có căn cứ, đúng pháp luật. Việc rút vốn giữa bà Lý với Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung đã được ghi nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số01/KT-ST ngày 7-2-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Theo đó, Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung phải thanh toán cho Xí nghiệp sản xuất đá ốp lát Tự Lập tiền góp vốn là 135.024,9 USD. Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung đã trả cho bà Lý 105.024,9 USD còn nợ 30.000 USD.

    Việc bà Lý nợ ông Thành 30.000 USD và Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung còn nợ của bà Lý khoản tiền rút vốn 30.000 USD là hai mối quan hệ pháp luật khác nhau, không thể đối trừ được. Toà án cấp phúc thẩm đã đối trừ khoản tiền 30.000 USD bà Lý nợ ông Thành với khoản tiền 30.000 USD mà Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung còn phải thanh toán theo Quyết định số01/KT-ST nêu trên và bác yêu cầu khởi kiện ông Thành trong khi bà Lý không đồng ý đối trừ vào khoản nợ của ông Thành là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của ông Thành. Ông Thành không được quyền đòi nợ, trong khi bà Lý vẫn đang yêu cầu Công ty liên doanh sản xuất đá ốp lát Tự Lập - Việt Hung phải trả cho bà Lý 30.000 USD theo quyết định số01/KT-ST ngày 7-2-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 2 Điều 297 và Điều 298 Bộ luật tố tụng dân sự;

    quyết định:

    Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 196/DSPT ngày 24-12-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử vụ án đòi nợ giữa nguyên đơn là ông Đỗ Văn Thành và bà Hoàng Thị Tân, do ông Đỗ Thanh Công là đại diện theo ủy quyền với bị đơn là bà Nguyễn Thị Lý. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 29-8-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    Quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về việc buộc bị đơn phải thanh toán khoản tiền vay cho các nguyên đơn là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc Toà án cấp phúc thẩm sửa quyết định của bản án sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của các nguyên đơn là không đúng.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc xem xét và đánh giá chứng cứ.

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 03:47:57 CH
     
    3321 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận