Quyết định giám đốc thẩm số 09/2006/ds-gđt ngày 09-5-2006 về vụ án “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”

Chủ đề   RSS   
  • #265059 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 09/2006/ds-gđt ngày 09-5-2006 về vụ án “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”

    Số hiệu

    09/2006/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số09/2006/ds-gđt ngày 09-5-2006 về vụ án “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”

    Ngày ban hành

    09/05/2006

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ09/2006/DS-GĐT NGÀY 09-5-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP 
    VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN”

     

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    ...

    Ngày 9 tháng 05 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các đương sự:

    1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Minh, sinh năm 1958; trú tại: Số nhà 90 Đại Lộ Hùng Vương, thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

    2. Bị đơn:       - Ông Nguyễn Hiên, sinh năm 1945;

                            - Bà Phạm Thị Đáng, sinh năm 1950;

    Cùng trú tại: Số nhà 104 Đại Lộ Hùng Vương, thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 30-8-1994 và lời khai tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi của bà Phạm Thị Minh thì:

    Căn nhà 72 đường Phan Bội Châu (nay là 90 đại lộ Hùng Vương) thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi thuộc quyền sở hữu của cụ Huỳnh Cháu và vợ là cụ Bùi Thị Sửu. Cụ Cháu, cụ Sửu chết không có di chúc nên ngôi nhà nói trên thuộc quyền sở hữu của 4 người con là các bà Huỳnh Thị Phương Liên, Huỳnh Thị Hương, Huỳnh Thị Tư và ông Huỳnh Văn Phú.

    Ngày 4-5-1992, bà Liên, ông Phú, bà Tư, bà Hương đã đồng ý ký giấy bán nhà cho bà tại Uỷ ban nhân dân phường với trị giá ghi trong giấy tờ là 10.000.000đ, (thực tế là 6,5 lạng vàng) bà đã đặt cọc cho bà Liên 2 chỉ vàng. Sau khi ký nhận giấy tờ nhà xong, ngày 20-6-1992 (âm lịch), bà Liên giao nhà và ngày 18-12 bà dọn đến ở.

    Trong lúc chưa mua nhà, bà ở nhờ vợ chồng ông Hiên, bà Đáng. Vì vậy, toàn bộ tài sản, hàng hoá mang về trong thời gian đi xuất khẩu lao động tại Liên Xô từ năm 1987 đến tháng 12-1991 đều gửi ông Hiên, bà Đáng giữ hộ, bán lấy tiền và thanh toán tiền mua nhà cho gia đình bà Liên; sau khi mua nhà do chưa có gia đình, cửa nhà lại không chắc chắn nên bà gửi toàn bộ giấy tờ mua nhà cho ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng giữ hộ. Năm 1993, vợ chồng ông Hiên lợi dụng việc giữ giấy tờ mua nhà đã giả mạo chữ ký của bà để chuyển tên người mua nhà là ông Hiên, bà Đáng. Nay bà yêu cầu ông Hiên, bà Đáng trả giấy tờ nhà và trả 31,5 chỉ vàng còn lại sau khi đã thanh toán tiền mua nhà.

    Ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng trình bày:

    Ông, bà đã có ngôi nhà tại số 84 đường Phan Bội Châu (nay là 104 đại lộ Hùng Vương) thị xã Quảng Ngãi, do ông Hiên làm nghề chữa bệnh, nhà đang ở chật hẹp nên ông, bà có ý định mua ngôi nhà khác để sử dụng làm phòng mạch.

    Năm 1992, biết bốn chị em bà Huỳnh Thị Phương Liên có nhà 72 đường Phan Bội Châu do cha mẹ chết để lại ông, bà đã mua, nhưng vì là năm tuổi lẻ, không đứng tên mua nhà được nên nhờ em vợ là bà Phạm Thị Minh lúc đó đang sinh sống tại nhà ông, bà đứng tên hộ; hợp đồng được Uỷ ban nhân dân phường Trần Phú chứng thực. Bà giao vàng cho bà Liên. Sau khi mua nhà xong do nhà hư hỏng, ông, bà sửa chữa nhà. Một thời gian sau, ông, bà cho bà Minh đến ở để giữ nhà. Năm 1993, ông viết đơn chuyển tên người đứng tên mua nhà từ bà Phạm Thị Minh qua tên ông, bà. Đơn do ông tự đánh máy tại cơ quan mang về đưa cho bà Minh. Sau khi bà Minh ký, ông đã chuyển đến Uỷ ban nhân dân phường để làm thủ tục. Uỷ ban nhân dân phường đồng ý chuyển tên cho ông bằng một hồ sơ mua bán nhà khác do ông Phú đại diện bốn chị em đứng bán. Ông đã đóng thuế trước bạ và Công chứng Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi chứng thực. Nay yêu cầu bà Minh phải trả nhà.

    Về việc bà Minh yêu cầu ông, bà trả 31,5 chỉ vàng: Thời gian bà Minh đi xuất khẩu lao động có gửi hàng cho ông, bà hai lần. Lần đầu bà Minh gửi là xà phòng, máy xay thịt... gia đình để dùng. Lần sau bán được 1,2 lạng vàng. Khi bà Minh về phép năm 1991, ông, bà đã trả cho bà Minh, nên không còn nợ bà Minh nữa.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 23/DSST ngày 23-11-1999, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

    Áp dụng Điều 263 và 265 Bộ luật dân sự.

    Tuyên xử:

    - Bác yêu cầu của bà Phạm Thị Minh đòi sở hữu ngôi nhà 72 Phan Bội Châu (nay là 90 Đại lộ Hùng Vương) thị xã Quảng Ngãi.

    - Vợ chồng ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng được quyền sở hữu ngôi nhà 72 Phan Bội Châu (nay là 90 đại lộ Hùng Vương) thị xã Quảng Ngãi.

    - Buộc bà Minh phải giao trả lại ngôi nhà 72 Phan Bộ Châu (nay là 90 đại lộ Hùng Vương) cho vợ chồng ông Hiên, bà Đáng như tình trạng khi bà đến ở.

    - Các phần bà tự sửa chữa thì có quyền tháo gỡ.

    - Buộc vợ chồng ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng phải trả cho bà Phạm Thị Minh 12 chỉ vàng (mười hai chỉ) là tiền hàng bà Minh gởi về cho ông Hiên lúc bà Minh đang ở nước ngoài.

    - Về án phí: Bà Phạm Thị Minh phải chịu 1.690.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 1.000.000đ, bà Minh còn phải nộp 690.000đ.

    - Vợ chồng ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng phải chịu 240.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

    Báo cho hai bên đương sự được biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24-11-1999).

    Ngày 28-11-1999, bà Minh kháng cáo toàn bộ bản án.

    Ngày 2-12-1999, ông Hiên kháng cáo đề nghị xem xét lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm buộc ông trả cho bà Minh 12 chỉ vàng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 27/DSPT ngày 14-6-2000, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định:

    Áp dụng điểm a, b khoản 3 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

    Tuyên xử:

    Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 23 ngày 23-11-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

    Giao hồ sơ vụ kiện tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Minh và bị đơn ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng về Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để điều tra xét xử lại với Hội đồng xét xử khác theo thủ tục chung.

    Hoàn trả dự phí kháng cáo cho bà Phạm Thị Minh và ông Nguyễn Hiên.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 23-02-2001, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

    Căn cứ vào các Điều 263, 265 Bộ luật dân sự, xử bác đơn yêu cầu của bà Phạm Thị Minh đòi sở hữu ngôi nhà 90 đại lộ Hùng Vương, thị xã Quảng Ngãi. Vợ chồng ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng được quyền sở hữu ngôi nhà 90 đại lộ Hùng Vương, thị xã Quảng Ngãi. Buộc bà Phạm Thị Minh phải trao trả ngôi nhà 90 đại lộ Hùng Vương cho ông Hiên, bà Đáng như hiện trạng. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng phải trả cho bà Phạm Thị Minh mười hai chỉ vàng 24k là tiền hàng bà Minh gửi về cho ông Hiên lúc bà ở nước ngoài và 10.347.600đ tiền sửa chữa nhà.

    Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 04-3-2001, ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xét lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm buộc ông, bà trả cho bà Minh 10.347.600đ tiền sửa chữa nhà.

    Ngày 28-02-2001, bà Phạm Thị Minh kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm đã xét xử oan và đề nghị cấp phúc thẩm công nhận quyền sở hữu ngôi nhà cho bà.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 06/DSPT ngày 26-3-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định:

    Áp dụng khoản 1 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: Bác đơn kháng cáo của bà Phạm Thị Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    Các quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 23-02-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đối với vụ kiện dân sự giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Minh và bị đơn là ông Nguyễn Hiên và bà Phạm Thị Đáng có hiệu lực pháp luật.

    Bà Phạm Thị Minh phải nộp 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Phạm Thị Minh có nhiều đơn khiếu nại cho rằng bà là người trực tiếp mua nhà, bà Phạm Thị Đáng chỉ là người trả tiền hộ.

    Tại Quyết định số45/2006/KN-DS ngày 24-3-2006 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 06/2003/DSPT 
    ngày 26-3-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST 
    ngày 23-02-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 06/2003/DSPT ngày 26-3-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

    XÉT THẤY:

    Căn cứ văn tự bán nhà lập ngày 4-5-1992, giữa bên bán là bà Huỳnh Thị Phương Liên (tức Huế), ông Huỳnh Văn Phú, bà Huỳnh Thị Hương, bà Huỳnh Thị Tư và anh Huỳnh Lê Quốc Phong (con ông Phú) và bên mua là bà Phạm Thị Minh về căn nhà số 90 đại lộ Hùng Vương (cũ là số 72 đường Phan Bội Châu), có thị thực của Uỷ ban nhân dân phường Trần Phú, thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi ngày 28-5-1992 thì giá mua bán là 10.000.000đ, nhưng thực tế là 6,5 lạng vàng. Sau khi thoả thuận mua nhà, bà Minh đã đặt cọc cho bà Liên 2 chỉ vàng. Số tiền còn lại 6,3 lạng vàng do bà Phạm Thị Đáng (chị ruột bà Minh) giao cho bà Liên (bên bán nhà) nhận từ ngày 23-6 đến ngày 17-7-1992. Sau khi mua được nhà đất trên, bà Minh đã nhận nhà và dọn đến ở. Tại Toà án, lời khai của bà Liên, bà Hương, bà Tư phù hợp với lời khai của bà Minh về giá nhà thực đã mua bán là 6,5 lạng vàng, tiền đặt cọc, người giao dịch mua nhà, người nhận nhà đã mua là bà Minh.

    Bà Huỳnh Thị Phương Liên có lời khai việc bà Phạm Thị Đáng trả vàng mua nhà cho bà Liên theo văn tự mua bán là 6,5 lạng vàng, các lần trả vàng tại nhà ông Hiên ở 84 đường Phan Bội Châu đều có mặt bà Minh, bà Đáng. Khi đó bà Liên có hỏi bà Minh tại sao bà Liên bán nhà cho bà Minh mà bà Đáng lại giao vàng thì bà Minh nói vàng của bà Minh, bà Liên cứ nhận đi. Lúc đó bà Đáng cũng nói vàng bà Minh gửi bà Đáng đưa; nhưng bà Đáng không công nhận sự việc như lời khai của bà Liên và xuất trình các giấy biên nhận tiền của bà Liên giao cho bà Đáng vào các ngày 23-6-1992 số vàng 2 chỉ, giấy biên nhận ngày 25-6-1992 số vàng 3 chỉ, giấy biên nhận ngày 16-7-1992 số vàng 24 chỉ và giấy biên nhận lần cuối cùng ngày 17-7-1992, tổng cộng số vàng là 65 chỉ; có chữ ký của bà Liên và anh Phong (cháu bà Liên).

    Đánh giá chứng cứ bà Đáng xuất trình chỉ thể hiện bà Đáng đã giao cho bà Liên số vàng mua nhà 6,5 lạng, còn chưa có cơ sở để xác định bà Đáng là người mua nhà. Mặt khác, bà Đáng cũng không chứng minh được nguồn tiền mua nhà của gia đình bà. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-3-2003 bà Đáng cũng thừa nhận bà Minh “đi nước ngoài về có tiền bạc...”. Như vậy, lời khai của bà Đáng nhờ bà Minh đứng tên mua nhà là chưa đủ căn cứ chứng minh. Theo lời khai của nhân chứng (bà Liên) nêu trên tuy có nội dung là bên bán bán nhà cho bà Minh, bà Đáng là người giao vàng cho bên bán hộ bà Minh, song ông Hiên và bà Đáng không thừa nhận có việc bà Đáng trả vàng mua nhà hộ bà Minh, nhưng các cấp Toà án chưa cho bị đơn, nhân chứng đối chất với nguyên đơn để làm rõ các điểm còn mâu thuẫn là thiếu sót.

    Một vấn đề quan trọng khác là: Trong hồ sơ vụ án có đơn (không ghi ngày, tháng) đề tên bà Phạm Thị Hồng Minh “xin chuyển tên người đứng tên mua nhà” cho ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng. Ngày 20-4-1993, ông Huỳnh Văn Phú viết “giấy mua bán nhà” lại bán cho ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng căn nhà nêu trên. Quá trình xét xử, các cấp Toà án đã trưng cầu giám định chữ ký của bà Minh trong “đơn xin chuyển tên người đứng tên mua nhà” do ông Hiên, bà Đáng xuất trình. Kết quả giám định là chưa đủ cơ sở kết luận chữ ký trong “đơn xin chuyển tên người đứng tên mua nhà” là của bà Minh, nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào một đoạn của bản kết luận là “có đặc điểm riêng giống nhau” để công nhận hợp đồng mua bán nhà lập ngày 20-4-1993 giữa ông Phú với ông Hiên, bà Đáng và công nhận ông Hiên, bà Đáng là chủ sở hữu nhà số 90 đại lộ Hùng Vương, thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi (cũ là số 72 đường Phan Bội Châu) là chưa đủ căn cứ vững chắc. Vì vậy, cần thu thập thêm chứng cứ và trưng cầu giám định lại chữ ký của bà Minh trong “đơn xin chuyển tên người đứng tên mua nhà” bằng một Hội đồng giám định. Trong trường hợp Toà án các cấp không xác định được thêm tình tiết, chứng cứ gì mới chứng minh rõ ràng bà Đáng, ông Hiên là bên mua nhà thì với các chứng cứ đang có trong hồ sơ vụ án kết luận nhà thuộc quyền sở hữu của bà Đáng, ông Hiên là không đủ căn cứ.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 2 và khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 06/2003/DSPT ngày 26-3-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án dân sự sơ thẩm 
    số 02/DSST ngày 23-02-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã giải quyết việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Minh với bị đơn là ông Nguyễn Hiên, bà Phạm Thị Đáng.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để giải quyết xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:

    1. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa cho bị đơn và các nhân chứng đối chất với nguyên đơn về những vấn đề có mâu thuẫn;

    2. Cần thu thập thêm chứng cứ và trưng cầu giám định lại chữ ký của nguyên đơn trong tài liệu do bị đơn xuất trình.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ.

     

     
    2809 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận