Quyết định giám đốc thẩm số 04/2006/ds-gđt ngày 22-02-2006 về vụ án “tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

Chủ đề   RSS   
  • #265027 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 04/2006/ds-gđt ngày 22-02-2006 về vụ án “tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

    Số hiệu

    04/2006/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số04/2006/ds-gđt ngày 22-02-2006 về vụ án “tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

    Ngày ban hành

    22/02/2006

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ04/2006/DS-GĐT NGÀY 22-02-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”

     

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    ...

    Ngày 22 tháng 02 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Lê Thị Mậu sinh năm 1928, uỷ quyền cho con là anh Nguyễn Huy Hiển sinh năm 1966, đều trú tại Xóm 5, Hoè Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

    Bị đơn: Anh Nguyễn Khắc Chiến sinh năm 1952, uỷ quyền cho vợ là chị Trần Thị Thành sinh năm 1957, đều trú tại Xóm 5, Hoè Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông Vũ Đình Báu, sinh năm 1946

    2. Bà Vũ Thị Loan, sinh năm 1939

    Cùng trú tại: 38B Hàng Cót, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    3. Bà Vũ Thị Lân, sinh năm 1943,

    Trú tại: 1B Hoàng Văn Thụ, Hà Nội.

    4. Anh Nguyễn Huy Hiển (con bà Mậu)

    5. Chị Trần Thị Thành (vợ anh Chiến).

    NHẬN THẤY:

    Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của Nguyên đơn: diện tích đất đang có tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng thuộc quyền sử dụng của bà Lê Thị Mậu (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17-1-1992 với diện tích 190 m2) và bà Lê Thị Tuất (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17-1-1992 với diện tích 190 m2) tại Xóm 5, Hoè Thị, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội. Nguồn gốc đất này là do bố mẹ của bà Mậu và bà Tuất cho hai bà. Khi cho các cụ chỉ nói miệng là cho mỗi người 10 thước đất vườn (bằng 240 m2) và chỉ vị trí đất, không đo đạc cụ thể. Diện tích hai thửa đất kề nhau và có bờ ngăn. Bà Tuất vì không ở tại địa phương nên nhờ bà Mậu trông nom hộ.

    Ngày 14-1-1993 bà Mậu đồng ý cho anh Nguyễn Huy Hiển (con trai bà Mậu) viết giấy chuyển nhượng quyền sở hữu đất vườn “nhượng lại quyền sở hữu mảnh vườn” do bà Mậu “là chủ sở hữu” cho anh Nguyễn Khắc Chiến (có vợ là chị Trần Thị Thành) với giá 800.000đ (nhưng trong giấy chuyển nhượng chỉ ghi là 500.000đ nhằm giảm thuế). Giấy chuyển nhượng được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản, chưa qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Khi chuyển nhượng không đo diện tích cụ thể cũng như chưa giao đất và giấy tờ. Do khi chuyển nhượng chưa được nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà Mậu cho rằng bà đã chuyển nhượng 240m(10 thước) đất của mình cho anh Chiến; sau khi được nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Mậu mới biết phần đất thuộc quyền sử dụng của mình chỉ có 190 m2. Như vậy, bà đã chuyển nhượng cho anh Chiến lấn sang phần đất của bà Tuất là 50 m2. Hơn nữa, anh Chiến còn ngang nhiên sử dụng phần đất còn lại thuộc quyền sử dụng của bà Tuất (tổng diện tích anh Chiến quản lý và sử dụng là 380 m2). Sau nhiều lần thương lượng với anh Chiến không thành, bà Mậu đề nghị chính quyền xã giải quyết. Ngày 8-1-2001 Uỷ ban nhân dân xã Xuân Phương tiến hành hoà giải nhưng không thành.

    Vì vậy, ngày 2-5-2003, bà Mậu làm “Đơn đề nghị xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn” với nội dung yêu cầu được nhận lại toàn bộ diện tích đất vườn nêu trên và xin chịu trách nhiệm bồi thường theo giá đất hiện hành đối với diện tích 240 m2 mà bà đã bán cho anh Chiến. Quá trình giải quyết vụ án, gia đình bà Mậu đề nghị Toà án huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hiển và anh Chiến và buộc anh Chiến trả lại 140 mđất mà anh Chiến chiếm dụng của gia đình bà Tuất.

    Bị đơn uỷ quyền cho chị Trần Thị Thành trình bày: không thừa nhận lời khai của nguyên đơn về diện tích đất hai bên chuyển nhượng. Anh Chiến khẳng định bà Mậu chuyển nhượng cho anh 380 mđất vườn. Tại thời điểm chuyển nhượng, anh Chiến cũng biết diện tích đất vườn nêu trên thuộc hai thửa và thuộc quyền sử dụng của hai chủ: bà Tuất được sử dụng 190 m2; bà Mậu được sử dụng 190 m2. Sở dĩ anh Chiến mua phần đất của bà Tuất là vì bà Mậu có nói: “cứ lấy cả hai thửa đó còn nếu có việc tranh chấp giữa bà Tuất và bà Mậu thì bà Mậu sẽ có trách nhiệm sau”. Trong giấy chuyển nhượng đề ngày 14-1-1993 không ghi diện tích chuyển nhượng là bao nhiêu cũng như tứ cận của mảnh đất; chỉ ghi giá 50.000 đồng, thực chất bán với giá 800.000 đồng; hai bên có lập thành văn bản có anh Hiển ký tên người bán, anh Chiến ký tên người mua, nhưng chưa qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Giấy chuyển nhượng do anh Chiến giữ, anh Chiến đã làm mất; còn giấy chuyển nhượng do phía bà Mậu xuất trình là đúng giấy chuyển nhượng do hai bên lập nhưng toàn bộ nét bút mực xanh và những chỗ gạch đều do phía anh Hiển tự sửa chữa và thêm vào. Sau khi nhận chuyển nhượng 380 mđất vườn nêu trên, anh Chiến quản lý, sử dụng từ năm 1993 và nộp thuế đối với diện tích đất này từ năm 1994 đến nay. Quá trình sử dụng đất, anh Chiến, chị Thành đã đổ đất cao hơn và trồng cây ăn quả, cây lưu niên.

    Việc bà Mậu uỷ quyền cho anh Hiển xin huỷ hợp đồng mua bán 
    ngày 14-1-1993, anh chị không đồng ý. Nếu anh Hiển và bà Mậu có thiện chí hoà giải thì gia đình anh chị sẽ cho chuộc lại 140 m2 đất vườn theo giá thị trường.

    Người có quyền và nghĩa vụ liên quan (ông Vũ Đình Báu, bà Vũ Thị Loan, bà Vũ Thị Lân) trình bày:

    Bà Tuất (mất năm 1995, mẹ đẻ ông Báu, bà Loan, bà Lân) được bố mẹ cho 10 thước đất vườn khoảng 240 m2 giáp liền với thửa đất của bà Mậu. Do không ở địa phương nên bà Tuất có nhờ bà Mậu trông nom, quản lý hộ. 
    Ngày 17-1-1992 bà Tuất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất chỉ còn 190 m2. Ông Báu, bà Loan, bà Lân không biết việc chuyển nhượng đất giữa bà Mậu, anh Hiển với anh Chiến. Đối với diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Tuất thì bà Tuất và các con bà Tuất chưa bán cho ai và không cho ai thuê, mượn gì. Anh Chiến sử dụng diện tích đất vườn này là trái pháp luật nên đề nghị anh Chiến trả lại...

    Tại bản án sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-1-2004, Toà án nhân dân huyện Từ Liêm quyết định:

    - Căn cứ Điều 15, 16 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự,

    - Căn cứ Điều 131, 136, 139, 146, 707 Bộ luật dân sự; Điều 31, 58 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Điều 7 NĐ 70/CP về chế độ án phí,

    - Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của TATC-VKS xử:

    1. Chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn của bà Lê Thị Mậu đối với anh Nguyễn Khắc Chiến.

    2. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn 
    ngày 14-01-1993 bị vô hiệu.

    Buộc anh Nguyễn Khắc Chiến và chị Trần Thị Thành phải trả cho bà Lê Thị Mậu diện tích đất vườn là 240 m2. Trong đó có 190 m2đất vườn của bà Mậu tại số tờ 20 số thửa 99 và 50 m2 đất vườn của ông Báu, bà Loan, bà Lân mà bà Mậu trông nom hộ tại Xóm 5, Hoè Thị, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội.

    Bà Mậu phải có trách nhiệm thanh toán cho anh Chiến số tiền là 180.400.000đ (Một trăm tám mươi triệu bốn trăm ngàn đồng).

    Ghi nhận sự tự nguyện của anh Hiển thanh toán giá trị cây cối cũng như công sức tôn tạo cho anh Chiến có giá trị là: 2.652.000đ.

    Giành quyền khởi kiện cho ông Báu, bà Loan, bà Lân đối với diện tích đất vườn 140 m2 hiện anh Chiến đang quản lý khi có đơn yêu cầu.

    Bác các yêu cầu khác của đương sự.

    Về án phí bà Mậu phải chịu 6.900.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.000.000đ theo biên lai số 2988 ngày 13-6-2003 của Đội thi hành án Từ Liêm. Bà Mậu còn phải nộp 5.900.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

    Anh Chiến phải chịu 6.900.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

    Kể từ ngày người được thi hành án có đơn xin thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu trả số tiền phải thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án xong.

    Ngày 13-1-2004 chị Thành có đơn kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do:

    - Diện tích đất mua bán là 380 m2 chứ không phải 240 m2 như Toà án cấp sơ thẩm xác định.

    - Việc xác định lỗi là không đúng vì gia đình chị hoàn toàn không có lỗi trong giao dịch chuyển nhượng đất tranh chấp.

    - Việc định giá đối với giá trị quyền sử dụng đất và giá trị cây cối hoa màu, công tôn tạo mảnh vườn không đúng với giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương vì thực tế giá khoảng 7.000.000đ/m2 chứ không phải giá 1.500.000đ/m2 như Toà án cấp sơ thẩm xác định.

    Tại bản án phúc thẩm số 92/DSPT ngày 28-4-2004, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

    Sửa án sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-1-2004 của Toà án nhân dân huyện Từ Liêm và xử:

    1. Chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn ngày 14-1-1993 của bà Lê Thị Mậu do anh Nguyễn Huy Hiển đại diện theo uỷ quyền đối với anh Nguyễn Khắc Chiến.

    2. Xác định hợp đồng chuyển nhượng đất vườn ngày 14-1-1993 giữa bà Lê Thị Mậu đối với anh Nguyễn Khắc Chiến có diện tích 380m2.

    3. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn 
    ngày 14-1-1993 bị vô hiệu.

    a. Buộc anh Nguyễn Khắc Chiến, chị Trần Thị Thành phải trả lại toàn bộ diện tích đất vườn 380m2 tại xóm 5 Hoè Thị, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội cho bà Lê Thị Mậu do anh Nguyễn Huy Hiển đại diện theo uỷ quyền.

    b. Bà Lê Thị Mậu do anh Nguyễn Huy Hiển đại diện theo uỷ quyền có trách nhiệm thanh toán trả anh Nguyễn Khắc Chiến do chị Trần Thị Thành đại diện theo uỷ quyền số tiền là 1.424.200.000 đồng (một tỷ bốn trăm hai mươi bốn triệu hai trăm ngàn đồng chẵn).

    4. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Hiển thanh toán giá trị cây cối cũng như công sức tôn tạo cho anh Chiến, chị Thành có giá trị là 2.652.000 đồng 
    (hai triệu sáu trăm năm mươi hai ngàn đồng).

    5. Bác các yêu cầu khác của đương sự.

    6. Án phí: Bà Mậu do anh Hiển đại diện theo uỷ quyền phải chịu 14.212.000 đồng án phí dân sự được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.000.000 đồng tại BL 2988 ngày 13-6-2003 của Đội thi hành án huyện Từ Liêm. Bà Mậu do anh Hiển đại diện còn phải chịu 13.212.000 đồng (mười ba triệu hai trăm mười hai ngàn đồng).

    Anh Chiến do chị Thành đại diện theo uỷ quyền phải chịu 8.625.000 đồng án phí dân sự. Hoàn trả chị Thành 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại BL số 002811 ngày 14-1-2004 của Đội thi hành án huyện Từ Liêm.

    Anh Chiến, do chị Thành đại diện còn phải chịu 8.575.000 đồng (tám triệu năm trăm bảy mươi năm ngàn đồng).

    Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    Sau đó, anh Nguyễn Huy Hiển có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định số05/KN-VKSTC-V5 ngày 02-02-2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên với lập luận: Toà án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Mậu với anh Chiến lập ngày 14-1-1993 vô hiệu là đúng nhưng xác định diện tích đất chuyển nhượng 380m2 là không có cơ sở và việc xác định lỗi của các bên chưa đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xử huỷ một phần bản án dân sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-2-2005, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định: không chấp nhận kháng nghị 
    số05/KN-VKSTC-V5 ngày 02-02-2005 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT ngày 28-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị Mậu với anh Nguyễn Khắc Chiến.

    Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, anh Nguyễn Huy Hiển tiếp tục có đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định số103/QĐKNGĐT-V5 ngày 14-12-2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm 
    số49/GĐT-DS ngày 24-2-2005 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ Quyết định giám đốc thẩm nêu trên và bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT ngày 28-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn giữ nguyên quan điểm đã được nêu trong kháng nghị.

    XÉT THẤY:

    1. Về thủ tục tố tụng:

    Bà Mậu khởi kiện và yêu cầu Toà án huỷ hợp đồng chuyển nhượng 
    240 mđất giữa anh Hiển với anh Chiến và buộc anh Chiến trả lại 140 mđất thuộc quyền sử dụng của bà Tuất do anh Chiến lấn chiếm; bà Mậu đã nộp tiền tạm ứng án phí cho yêu cầu này theo đúng quy định của pháp luật. Anh Chiến cho rằng bà Mậu đã chuyển nhượng cho anh 380 m2 đất và không có việc lấn chiếm. Đây chỉ là lý do anh Chiến nêu ra để bảo vệ quyền lợi của mình, không chấp nhận yêu cầu của bà Mậu chứ không phải là yêu cầu phản tố nên Toà án không buộc anh Chiến phải nộp tiền tạm ứng án phí là đúng.

    Trong hồ sơ vụ án không có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, không có giấy triệu tập đương sự đến phiên toà phúc thẩm và không có tài liệu nào chứng minh Toà án đã tống đạt hợp lệ giấy báo phiên toà cho những người có quyền, nghĩa vụ liên quan (ông Báu, bà Loan, bà Lân), nhưng Toà án cấp phúc thẩm nhận định: “Ông Báu, bà Loan, bà Lân đã được tống đạt hợp lệ giấy báo phiên toà lần thứ hai song ông Báu, bà Loan, bà Lân vắng mặt tại phiên toà không có lý do” là có thiếu sót.

    2. Về nội dung:

    Việc xác định diện tích đất chuyển nhượng: Về diện tích đất chuyển nhượng hai bên khai không thống nhất. Bà Mậu và anh Hiển khai diện tích đất vườn chuyển nhượng là 240 mbằng 10 thước. Trong khi đó, vợ chồng anh Chiến cho rằng diện tích đất chuyển nhượng là 380 m2. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Hiển thừa nhận những chữ “10T khoảng 240m2” tại giấy chuyển nhượng đề ngày 14-1-1993 là do anh Hiển điền thêm vào. Lời khai này phù hợp kết luận giám định của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an. Anh Chiến khẳng định giấy chuyển nhượng đề ngày 14-1-1993 do anh Hiển cung cấp là đúng giấy chuyển nhượng do hai bên lập nhưng không thừa nhận sự gạch xoá, sửa chữa và viết thêm nội dung trong giấy chuyển nhượng. Như vậy, có đủ cơ sở xác định việc hai bên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thể hiện bằng giấy chuyển nhượng đề ngày 14-1-1993 (Giấy nhượng quyền sở hữu đất vườn); trong giấy chuyển nhượng này không ghi cụ thể diện tích chuyển nhượng và tứ cận mảnh đất chuyển nhượng.

    Tuy giấy chuyển nhượng đề ngày 14-1-1993 không ghi cụ thể diện tích và tứ cận mảnh đất chuyển nhượng nhưng có nội dung bà Mậu “nhượng lại quyền sở hữu mảnh vườn” mà bà Mậu “đang là chủ sở hữu” cho anh Chiến. Theo anh Chiến khai thì tại thời điểm chuyển nhượng, anh Chiến biết toàn bộ 380 mđất thuộc hai thửa của hai chủ (bà Tuất và bà Mậu) nhưng vẫn nhận chuyển nhượng cả hai thửa đất nói trên. Trong khi đó nội dung của giấy chuyển nhượng đất nêu trên lại không thể hiện chuyển nhượng phần đất thuộc quyền sử dụng của bà Tuất. Quá trình giải quyết vụ án, bà Mậu và anh Hiển thống nhất khai chỉ chuyển nhượng cho anh Chiến 240m2 đất vườn trong đó có 190m2thuộc quyền sử dụng của bà Mậu và 50m2 thuộc quyền sử dụng của bà Tuất. Anh Chiến không xuất trình được chứng cứ nào có ghi rõ diện tích đất chuyển nhượng là 380m2 hoặc có nhận chuyển nhượng cả phần đất thuộc quyền sử dụng của bà Tuất. Do đó, chỉ có cơ sở xác định diện tích đất mà bà Mậu đã chuyển nhượng cho anh Chiến là 240m2.Toà án cấp sơ thẩm xác định diện tích đất hai bên chuyển nhượng là 240m2 là chính xác. Toà án cấp phúc thẩm và Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định diện tích chuyển nhượng là 380m2 trong đó có 190mthuộc quyền sử dụng của bà Tuất là không có căn cứ.

    Xét về lỗi: Đối với 190m2 đất vườn thuộc quyền sử dụng của bà Mậu, bà Mậu đã chuyển nhượng cho anh Chiến và đã nhận tiền; anh Chiến đã trực tiếp quản lý, sử dụng, nhưng anh Chiến có vi phạm là đã sử dụng phần đất của bà Tuất mà bà Mậu chưa chuyển nhượng. Nay bên chuyển nhượng xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vườn thì bên chuyển nhượng phải chịu 100% lỗi do mình đã gây ra. Toà án cấp phúc thẩm buộc bên chuyển nhượng chịu 100% lỗi đối với việc chuyển nhượng 190mđất thuộc quyền sử dụng của bên chuyển nhượng và Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã giữ nguyên phần này là có cơ sở. Đối với phần đất 50m2 thuộc quyền sử dụng của bà Tuất nhưng bà Mậu đã chuyển nhượng cho anh Chiến thì thấy rằng: bà Mậu cho rằng đã chuyển nhượng sang phần đất của bà Tuất là 50m2, còn anh Chiến biết phần đất đó thuộc quyền sử dụng của bà Tuất nhưng vẫn nhận chuyển nhượng; do đó, bà Mậu và anh Chiến mỗi người phải chịu 50% lỗi do mình gây ra.

    Ngoài ra, trong số 380mđất vườn đang tranh chấp chỉ có 190m2 thuộc quyền sử dụng của bà Mậu; 190mcòn lại thuộc quyền sử dụng của bà Tuất. Bà Tuất chết năm 1995, các con bà Tuất là những người được hưởng thừa kế quyền sử dụng phần đất này có tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Toà án cấp phúc thẩm buộc anh Chiến và chị Thành phải giao lại toàn bộ diện tích đất vườn 380m2 (trong đó có 190mthuộc quyền sử dụng của bà Tuất) cho bà Mậu khi chưa có sự thoả thuận về vấn đề này giữa bà Mậu và các con bà Tuất là chưa đảm bảo quyền lợi của các con bà Tuất.

    Bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT ngày 28-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã có sai sót về nội dung và tố tụng nhưng Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao vẫn giữ nguyên quyết định của bản án phúc thẩm nêu trên là không đúng pháp luật.

    Vì vậy, cần huỷ Quyết định giám đốc thẩm và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên để Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Bởi lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-2-2005 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao và bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT 
    ngày 28-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị Mậu và anh Nguyễn Khắc Chiến.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ quyết định giám đốc thẩm và bản án phúc thẩm:

    1. Không có tài liệu chứng minh Toà án cấp phúc thẩm đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan;

    2. Toà án cấp phúc thẩm và Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định chưa chính xác diện tích đất chuyển nhượng giữa nguyên đơn và bị đơn;

    3. Toà án cấp phúc thẩm quyết định buộc bị đơn giao lại toàn bộ diện tích đất vườn tranh chấp cho nguyên đơn là chưa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ quyết định giám đốc thẩm và bản án phúc thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc áp dụng các quy định của luật tố tụng dân sự về việc triệu tập các đương sự tham gia phiên toà;

    2. Thiếu sót trong việc xem xét và đánh giá chứng cứ.

     

     
    3024 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận