Quyết định giám đốc thẩm số: 03/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Chủ đề   RSS   
  • #263933 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 03/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

    Số hiệu

    03/2010/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:03/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

    Ngày ban hành

    21/01/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩmz

    Số:03/2010/KDTM-GĐT

    Ngày 21 tháng 01 năm 2010

    V/v: tranh chấp hợp đồng mua bán

    hàng hóa

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------T1

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Xuân Đào;

    Các Thẩm phán: Ông Bùi Thế Linh;

    Ông Nguyễn Văn Tiến

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Tá Cơ-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

    Ngày 21 tháng 01 năm 2010, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ông Ngô Thanh Lâm-Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I; có trụ sở tại khu Bình Hòa, Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; do ông Đặng Hữu Trí làm đại diện theo ủy quyền của ông Ngô Thanh Lâm – Chủ Doanh nghiệp.

    Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn; có trụ sở tại lô A22 + B8 khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; do bà Phan Thị Nguyệt – Giám đốc Công ty làm đại diện.

    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/11/2005 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình trong quá trình giải quyết vụ án thì thấy trong các năm 2003 và 2004 Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn (Sau đây gọi tắt là Công ty Đại Dương Quy Nhơn) đã ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa (nông sản), trong đó có Hợp đồng mua bán sắn lát số 15/ Đại Dương Quy Nhơn-PNI ngày 22/3/2004 và Hợp đồng mua bán đậu xanh số02/Đ-PNI ngày 8/7/2004.

    Theo Hợp đồng mua bán sắn lát số 15, Công ty Đại Dương Quy Nhơn (Bên A) bán cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I (Bên B) 10000 tấn (+/- 0,5%) sắn lát khô xuất khẩu vụ 2003-2004; tổng giá trị thanh toán: 12.915.000.000 đồng (bao gồm cả 5% thuế giá trị gia tăng); Bên A có trách nhiệm giao hàng tại Cầu Cảng Quy Nhơn cho Bên B đủ số lượng, đúng chất lượng theo hợp đồng; hàng phải được tập kết tại kho của Bên A tại Khu công nghiệp Phú Tài, tỉnh Bình Định làm căn cứ để hai bên tiến hành lập biên bản gửi kho hàng và tính các chi phí phát sinh trong quá trình lưu kho; có trách nhiệm sắp xếp công nhân, phương tiện vận chuyển để đảm bảo giao hàng cho Bên B tới Cầu Cảng Quy Nhơn…;

    Bên B có trách nhiệm: Thông báo cho Bên A thời gian giao hàng trước 07 ngày; giải phóng xe nhanh gọn…; thanh toán đủ tiền hàng và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình lưu kho…; phương thức thanh toán:

    Trong vòng 05 ngày sau khi ký hợp đồng, hai bên ký biên bản gửi kho hàng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng, Bên B sẽ thanh toán trước số tiền 2.000.000.000 đồng, số tiền còn lại Bên B sẽ thanh toán trong vòng 150 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng…

    Theo Hợp đồng mua bán đậu xanh số02/ĐD-PNI ngày 8/7/2004, Công ty Đại Dương Quy Nhơn (Bên A) bán cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I 2000 tấn (+/- 0.5%) đậu xanh, tổng thành tiền là 14.595.000.000 đồng (bao gồm cả 5% thuế giá trị gia tăng); thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản; ngay sau khi ký hợp đồng, Bên B ứng trước cho Bên A 500.000.000 đồng; số tiền còn lại giao hàng đến đâu thanh toán đên đó theo tiến độ giao hàng (bắt đầu từ ngày 10/7/2004 đến ngày 30/10/2004).

    Ngày 1/10/2004 (được đính chính lại là ngày 28/10/2004 theo Công văn số21/CV-2004 ngày 06/11/2004 của Công ty Đại Dương Quy Nhơn), hai bên lập biên bản thanh lý công nợ. Sau khi cân đối số tiền và hàng hóa các bên đã giao nhận thì Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền là 6.884.439.243 đồng của các Hợp đồng số 15/ ĐD-PNI và số02/ĐD-PNI nêu trên.

    Ngày 30/10/2004, hai bên lập Biên bản thỏa thuận với nội dung: Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I đồng ý cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn được trả nợ từng phần số tiền nợ 6.884.439.243 đồng, chậm nhất đến ngày 31/12/2004, Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn phải thanh toán hàng tháng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I lãi tiền vay là 0,95%/tháng cho toàn bộ số tiền còn nợ kể từ ngày hai bên xác nhận công nợ.

    Ngày 31/12/2004,hai bên lập biên bản thỏa thuận cho Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn được gia hạn thanh toán đến hết ngày 31/5/2005.

    Ngày 1/8/2005, Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn có văn bản đề nghị được gia hạn thanh toán đến ngày 15/8/2005 và đồng ý thế chấp cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi tọa lạc tại Lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cùng trang thiết bị của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn (có danh mục đính kèm) để đảm bảo cho việc thanh toán nợ. Nếu đến hạn mà vẫn không có khả năng thanh toán thì chuyển giao quyền khai thác toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi cùng trang thiết bị thế chấp trên cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I. Văn bản có nội dung thế chấp tài sản này chưa được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng thực hợp pháp và cũng chưa được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Ngày 2/8/2005, hai bên đã lập biên bản bàn giao theo đó Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn chính thức bàn giao toàn bộ chứng từ nhà xưởng kho bãi tọa lạc tại Lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cùng trang thiết bị của Công ty cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I

    Ngày 28/11/2005, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I có đơn khởi kiện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn phải trả 7.618.635.105 đồng (bao gồm tiền nợ gốc và lãi) hoặc phải chuyển giao quyền khai thác toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi cùng toàn bộ trang thiết bị cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I theo cam kết ngày 1/8/2005.

    - Tại bản tự khai và Biên bản hòa giải thành ngày 26/12/2005 phía bị đơn cơ bản thừa nhận những nội dung trình bày của nguyên đơn, xác nhận còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I tổng số tiền là 7.618.635.105 đồng và đồng ý giao toàn bộ nhà xưởng, thiết bị, kho bãi tọa lạc tại Lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn và quyền sử dụng đất với diện tích 32.990 mcho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I để cấn trừ nợ.

    Ngày 2/12/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Tại phiên hòa giải, do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp nên Tòa án đã lập biên bản hòa giải thành.

    - Ngày 3/1/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ban hành Quyết định số27/KDTM-ST công nhận sự thỏa thuận của các đương sự với nội dung:

    + Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn còn nợ Doanh số tiền 7.618.635.105 đồng, hai bên thống nhất trả nợ như sau:

    Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn giao cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I toàn bộ các nhà xưởng, thiết bị, kho bãi tọa lạc tại Lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn và quyền sử dụng đất với diện tích 32.990 m2(theo biên bản thỏa thuận ngày 1/8/2005 và bản liệt kê tài sản kèm theo). Thời hạn giao ngày 3/1/2006. Toàn bộ tài sản và quyền sử dụng đất trên trị giá 6.000.000.000 đồng thuộc sở hữu của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, số tiền còn lại 1.618.635.105 đồng.

    + Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn còn phải có nghĩa vụ phải trả cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền 1.618.635.105 đồng. Thời hạn thanh toán từ ngày 26/12/2005 đền 30/6/2006.

    Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí, về trách nhiệm đối với việc chậm thi hành án.

    - Ngày 24/1/2006, ông Nguyễn Khắc Tùng có đơn khiếu nại đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên.

    - Tại Quyết định số08/KN-AKT ngày 31/5/2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số27/KDTM-ST ngày 3/1/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và đề nghị Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao căn cứ quy định tại Điều 109, khoản 4 Điều 189, Điều 286, Điều 287, Diều 291 của Bộ luật tố tụng dân sự xử hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số27/KDTM-ST nêu trên và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm.

    - Tại Quyết định giám đốc thẩm số01/2006/KDTM-GĐT ngày 26/7/2006 Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định:

    “ Không chấp nhận kháng nghị số08/KN-AKT ngày 31/5/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Giữ nguyên Quyết định số27/KDTM-ST ngày 3/1/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự giữa nguyên đơn là Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn”.

    - Ông Nguyễn Khắc Tùng khiếu nại quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

    - Tại Quyết định số11/KN-AKT ngày 19/9/2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số01/2006/KDTM-GĐT ngày 26/7/2006 Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ khoản 4 Điều 189, Điều 291 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 2 Luật Doanh nghiệp xử hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số27/KDTM-ST ngày 3/1/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và Quyết định giám đốc thẩm số01/2006/KDTM-GĐT ngày 26/7/2006 Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết từ giai đoạn sơ thẩm.

    - Tại Quyết định giám đốc thẩm số03/2007/KDTM-GDT ngày 7/3/2007, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

    “Hủy và Quyết định giám đốc thẩm số01/2006/KDTM-GĐT ngày 26/7/2006 Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số27/KDTM-ST ngày 3/1/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật”.

    - Ngày 14/2/2008, bà Ngô Thị Mai Hoa – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I chuyển nhượng toàn bộ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I cho ông Tô Thanh Lâm (bao gồm cả quyền lợi và nghĩa vụ của Doanh nghiệp này).

    - Ngày 19/2/2008, Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 460.100.1928 cho ông Tô Thanh Lâm – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I.

    - Ngày 12/3/2008, ông Tô lập giấy ủy quyền cho ông Đặng Hữu Trí tiếp tục thay mặt Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I tham gia tố tụng để giải quyết vụ án.

    - Ngày 22/8/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định tiến hành hòa giải giữa Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và đại diện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn. Do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp nên Tòa án đã lập biên bản hòa giải thành.

    - Ngày 1/9/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra Quyết định số31/2008/QĐST-KDTM công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, với nội dung:

    1. Xác nhận Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền 7.618.635.105 đồng (trong đó: gốc 6.884.339.243 đồng và lãi 735.295.862 đồng).

    2. Hình thức trả nợ:

    - Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn chấp nhận giao cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I toàn bộ các nhà xưởng, thiết bị, nhà kho, sân bãi và quyền sử dụng đất tọa lạc tại Lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn để khấu trừ khoản nợ 7.618.635.105 đồng (Cong ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I xác định toàn bộ tài sản và quyền sử dụng đất nêu trên trị giá 7.618.635.105 đồng).

    - Thời gian giao tài sản từ ngày 1/9/2008 đến ngày 10/9/2008.

    - Sau khi Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn giao toàn bộ tài sản trên cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I thì Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn không còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I. Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm lại thủ tục thuê đất gắn liền với kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Phú Tài (Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I phải chịu mọi chi phí phát sinh về việc lập thủ tục thuê lại đất này).

    Tại Quyết định số22/2009/KDTM-KN ngày 02/11/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số31/2008/QDST-KDTM của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số31/2008/QDST-KDTM ngày 1/9/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến cho rằng Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa (yêu cầu thanh toán tiền hàng còn thiếu của hai hợp đồng mua bán sắn lát khô và đậu xanh). Bà Phan Thị Nguyệt là đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn đã thừa nhận nợ và có quyền dùng toàn bộ tài sản của Công ty để cấn trừ nợ cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I. Ông Nguyễn Khắc Tùng chỉ là thành viên Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, không có tư cách gì để tham gia tố tụng trong vụ án này. Nếu ông Tùng có đủ căn cứ cho rằng bà Nguyệt ký khống hợp đồng để tẩu tán tài sản của Công ty khi ly hôn với ông Tùng thì ông Tùng có quyền làm đơn tố cáo hành vi của bà Nguyệt tại Cơ quan Công an để xem xét về trách nhiệm hình sự. Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng cần đưa ông Tùng vào tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có căn cứ.

    XÉT THẤY

    1/ Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn có hai thành viên gồm: bà Phan Thị Nguyệt (nắm giữ 80% vốn điều lệ) và ông Nguyễn Khắc Tùng (nắm giữ 20% vốn điều lệ). Bà Nguyệt và ông Tùng đã từng là vợ chồng với nhau(ly hôn ngày 10/5/2004), nên tài sản của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn cũng là tài sản thuộc sở hữu chung của bà Nguyệt và ông Tùng. Bà Phan Thị Nguyệt là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, có quyền quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Giám đốc Công ty-Người đại diện theo pháp luật của Công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty nhưng không được gây thiệt hại cho Công ty và thành viên khác của Công ty.

    Ông Nguyễn Khắc Tùng là người đang có tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn với bà Phan Thị Nguyệt va khiếu nại về các khoản nợ của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn với Doanh (ông Tùng cho rằng các hợp đồng mua bán hàng hóa nói trên là hợp đồng giả tạo để tẩu tán tài sản ly hôn). Hơn nữa, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: ngày 26/7/2006, Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định đã tổ chức cưỡng chế buộc bà Phan Thị Nguyệt phải giao toàn bộ tài sản có tại Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn cho ông Nguyễn Khắc Tùng theo Quyết định cưỡng chế thi hành án số10/QĐCC-THA ngày 05/7/2006 (để thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 15/DSPT ngày 27/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum). Bà Phan Thị Nguyệt có nhiều đơn (các ngày 20/7/2007, 27/7/2007, và 8/8/2007) đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc ông Nguyễn Khắc Tùng phải giao lại toàn bộ tài sản đã nhận cho Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn (BL 562, 743, 746, 752). Ông Tùng có đơn khiếu nại, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã lấy lời khai của ông Tùng, nhưng sau đó không đưa ông Tùng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là sai lầm, làm cho việc giải quyết vụ án không đúng pháp luạt.

    Vì vậy, đối với vụ án cụ thể này và theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, việc đưa ông Nguyễn Khắc Tùng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là cần thiết, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, không làm phát sinh khiếu kiện kéo dài.

    Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này là có căn cứ.

    2/ Theo Biên bản thanh lý công nợ ngày 1/10/2004 (được đính chính lại là ngày 28/10/2004 theo Công văn số21/CV-2004 ngày 6/11/2004 của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn) thì doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I nợ Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn các khoản:

    + Tiền mua sắn lát khô của Hợp đồng mua bán sắn lát số 15/ Đại Dương Quy Nhơn-PNI ngày 22/3/2004 và Hợp đồng mua bán đậu xanh số02/Đ-PNI ngày 8/7/2004 là 2.011.463.466 đồng (theo các Hóa đơn giá trị gia tăng số 0062459 ngày 30/9/2004 là 1.983.089.210 đồng và số 0062458 ngày 30.9.2004 là 28.374.255 đồng);

    + Tiền mua đậu xanh và đậu nành của Hợp đồng mua bán đậu xanh số02/ĐD-PNI ngày 8/7/2004 là 2.201.435.825 đồng (Hóa đơn giá trị gia tăng số 0062458 ngày 30/9/2004);

    + Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn chỉ trả thay tiền tàu (4 hóa đơn cùng số 006602; trong đó, có 3 hóa đơn cùng ngày 09/8/2004 và 1 hóa đơn ngày 11/4/2004) là 14.761.465 đồng.

    Tổng 3 khoản là 4.227.660.757 đồng.

    Nhưng Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I đã thanh toán bằng chuyển khoản, tiền mặt cho Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tổng số tiền là 11.112.000.000 đồng. Đối trừ 11.112.000.000 đông – 4.227.600.757 đồng = 6.884.339.243 đồng. Tại sao có sự thanh toán với số tiền chênh lệch quá lớn này cần được xem xét làm rõ. Cũng cần làm rõ về số tiền mua đậu nành và sắn lát được thể hiện tại Hóa đơn giá trị gia tăng số 0062458 ngày 30/9/2004. Hóa đơn này được xuất theo Hợp đồng mua bán đậu xanh số02/ĐD-PNI này thì hai bên chỉ thỏa thuận mua bán đậu xanh, không có đậu nành và sắn lát. Tiền mua sắn lát theo Hợp đồng mua bán sắn lát số15/ĐD-PNI ngày 22/3/2004 đã được xuất theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 0062459 cùng ngày 30/9/2004.

    Ông Tùng cho rằng các hợp đồng nêu trên được ký kết giữa Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn là hợp đồng khống nhằm tẩu tán tài sản của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn của bà Nguyệt. Tại Quyết định giám đốc thẩm số03/2007/KDTM-GĐT ngày 7/3/2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ rõ cần phải xem xét các vấn đề bất hợp lý của Biên bản thanh lý công nợ nêu trên và khiếu nại của ông Tùng nhưng chưa được Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xem xét một cách đầy đủ.

    Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có xác minh tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh Phú Tài về các giấy nộp tiền và Ủy nhiệm chi các ngày 4/10/2004, 5/10/2004, nhưng các Giấy nộp tiền và Ủy nhiệm chi này đều thể hiện việc chuyển tiền cho bà Nguyệt vay (hoặc mượn) không phải trả tiền hàng.

    Về các hóa đơn chi trả thay tiền tàu cũng chưa được xem xét làm rõ. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 04/7/2008, đại diện Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I xin phép trả lời vấn đề này sau khi về đối chiếu lại chứng từ, hóa đơn, nhưng trong hồ sơ vụ án không có tài liệu thể hiện việc trả lời của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I.

    Mặt khác, trong Biên bản thanh lý công nợ thể hiện có 2 lần liệt kê tiền chuyển khoản; trong đó, có khoản tiền 3.200.000.000 đồng được chuyển trong thời gian từ ngày 04/10/2004 đến ngày 26/10/2004 như thể hiện trong Biên bản thanh lý công nợ. Đây cũng là những vấn đề cần được xem xét khi giải quyết lại vụ án này.

    Ngoài ra, cần làm rõ tại sao cùng ngày 22/3/2004 Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn và Doanh ký kết hai Hợp đồng mua bán sắn lát số10/Đ-PNI và số15/ĐD-PNI có cùng nội dung mua bán 10 tấn sắn lát khô; việc thực hiện hai hợp đồng này (giao nhận hàng, thanh toán tiền) như thế nào? Cần yêu cầu các đương sự xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh.

    Bởi các lẽ trên;

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; các khoản 1 và 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số31/2008/QĐST-KDTM ngày 1/9/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đòng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là ông Tô Thanh Lâm-Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I với bị đơn là Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn;

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Nguyễn Văn Tiến Bùi Thế Linh

    (Đã ký) (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Đặng Xuân Đào

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 03:47:05 CH
     
    3722 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận