Quyết định giám đốc thẩm số: 02/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Chủ đề   RSS   
  • #263931 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 02/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

    Số hiệu

    02/2010/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:02/2010/KDTM-GĐT ngày 21 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

    Ngày ban hành

    21/01/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
    TÒA KINH TẾ
    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm
    Số:02/2010/KDTM-GĐT /> Ngày 21 tháng 01 năm 2010
    V/v: tranh chấp hợp đồng mua bán 
    hàng hóa

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------T11

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tiến;

    Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;

    Ông Bùi Thế Linh.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Bá Thắng-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

    Ngày 21 tháng 01 năm 2010, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty TNHH Thiên Xứng; có trụ sở tại P501 Tòa nhà tuổi trẻ số 2 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội.

    Bị đơn: Công ty cổ phần Xây dựng 71; có trụ sở tại số 24 Phan Bội Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 9/6/2007 của nguyên đơn, các lời khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

    Ngày 24/7/2003, Công ty xây Dựng 71 (nay là Công ty cổ phần xây Dựng 71 theo Quyết định số 998/QĐ_BXD ngày 12/5/2005 của Bộ trưởng Bộ xây Dựng về việc cổ phần hóa) và Công ty TNHH Thiên Xứng ký Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 kèm theo các phụ lục hợp đồng với nội dung (tóm tắt):

    Công ty TNHH Thiên Xứng cung cấp cho Công ty xây Dựng 71 Đây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất tấm trần nhựa; Dây chuyền sản xuất phụ kiện PVC và các hệ thống điện động lực, hệ thống nước làm mát, hệ thống khí nén dùng cho các Dây chuyền trên, tổng giá trị hợp đồng là 212.304 USD; thời gian giao hàng là 45 ngày; thời gian đưa Dây chuyền vào hoạt động là 90 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.

    Ngày 24/7/2007, Công ty TNHH Thiên Xứng ký hợp đồng kinh tế số 612/HĐKT/2003 mua lại của Công ty xây Dựng 71 hai thiết bị là Máy nén khí (2 cái) và hệ thống điện động lực với tổng giá trị là 6.014 USD.

    Đại Điện nguyên đơn-Công ty TNHH Thiên Xứng trình bày: Thực hiện Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003, thì ngày 31/12/2003 Công ty TNHH Thiên Xứng đã bàn giao toàn bộ 03 dây chuyền và được hai bên ký nhận vào Biên bản ngày 1/1/2004.

    Ngày 21-22/9/2004, hai bên ký biên bản nghiệm thu hạng mục công trình để đưa vào sử dụng. Theo đó, Công ty TNHH Thiên Xứng chậm hợp đồng là 90 ngày; Công ty xây dựng 71 chậm hợp đồng là 200 ngày,

    Ngày 5/10/2004, Công ty TNHH Thiên Xứng có Công văn số 464CV/TX về việc tiến hành thanh lý hợp đồng.

    Ngày 9/10/2004, Công ty xây dựng 71 có công văn đề nghị Công ty TNHH Thiên Xứng hoàn thiện hồ sơ để hai bên cùng thanh lý hợp đồng.

    Ngày 7/12/2005, Công ty xây dựng 71 có công văn đề nghị mua lại theo phương án trả chậm từ năm 2006 đến năm 2013 nhưng không được Công ty TNHH Thiên Xứng chấp nhận.

    Nay Công ty TNHH Thiên Xứng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty xây dựng 71 thanh toán trả cho TNHH Thiên Xứng số tiền 4.313.723.153 đồng, trong đó giá trị hợp đồng là 3.417.032.880 đồng (tương đương 212.304 USD) và lãi chậm trả là 896.690.273 đồng. Đồng thời đồng ý đối trừ khoản tiền của Hợp đồng 612.

    Đại diện bị đơn- Công ty xây dựng 71 trình bày: Căn cứ vào Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003, thì Công ty TNHH Thiên Xứng phải hoàn thành bàn giao hàng là ngày 24/7/2003 nhưng theo biên bản nghiệm thu thì ngày 21/9/2004 TNHH Thiên Xứng mới hoàn thành bàn giao, tức là chậm 290 ngày. Do việc chậm trễ này mà Ngân hàng tài trợ vốn đã cắt tài trợ vốn cho Công ty xây dựng 71 dù Công ty xây dựng 71 đã nỗ lực đàm phán với Ngân hàng. Từ những nguyên nhân đó, trên tinh thần hợp tác Công ty xây dựng 71 đã có văn bản đề nghị TNHH Thiên Xứng thu hồi thiết bị của mình chứ không áp dụng hình thức phạt vi phạm hợp đồng. Khi cổ phần hóa, tài sản có từ Hợp đồng số 611 này không được Công ty xây dựng 71 bàn giao cho Công ty cổ phần xây dựng 71, do vậy, không thuộc tài sản của Công ty cổ phần xây dựng 71. Cho nên, Công ty cổ phần xây dựng 71 không phải thanh toán và yêu cầu TNHH Thiên Xứng nhận lại tài sản.

    - Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số18/2007/KĐTM-ST ngày 26/9/2007, Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng căn cứ vào Điều 50, Điều 306 Luật Thương mại và Điều 305 Bộ luật Đân sự, quyết định:

    + Buộc Công ty cổ phần xây dựng 71 phải trả cho Công ty TNHH Thiên Xứng số tiền 3.965.362.451 đồng. Trong đó tiền mua bán hàng hóa là 3.141.085.810 đồng, tiền lãi trả do chậm thanh toán là 824.276.641 đồng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền kháng cáo.

    - Ngày 09/10/2007, Công ty cổ phần xây Đựng 71 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

    - Tại bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2008/KĐTM-PT ngày 25/01/2008, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    - Ngày 10/6/2009, Công ty cổ phần xây dựng 71 có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Ngày 14/7/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có Công văn số10/VKS-KĐTM đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Tại Quyết định kháng nghị số35/KNGĐT-V12 ngày 4/11/20090, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2008/KĐTM-PT ngày 25/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng áp dụng khoản 3 Điều 297; khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số18/2007/KĐTM-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2008/KĐTM-PT ngày 25/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, xét xử lại theo thủ tục chung.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị và hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để xét xử sơ thẩm lại.

    XÉT THẤY

    Công ty xây dựng 71 thuộc Tổng công ty xây dựng miền Trung là doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa thành Công ty cổ phần xây dựng 71 theo Quyết định số998/QĐ-BXĐ ngày 12/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và ngày 01/11/2006 tiến hành bàn giao Đoanh nghiệp. Tại thời điểm tiến hành cổ phần hóa, Nghị định số187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển Công ty nhà nước thành Công ty cổ phần đang có hiệu lực thi hành, do vậy phải áp dụng Nghị định số 187 này để giải quyết.

    Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 187 nêu trên quy định: “Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Công ty nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy là Công ty cổ phần xây dựng 71 kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Công ty xây dựng 71 trước khi cổ phần hóa. Chính vì vậy, Công ty TNHH Thiên Xứng khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần xây Đựng 71 thanh toán tiền 03 dây chuyền sản xuất theo Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003 và Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định Công ty cổ phần xây dựng 71 là bị đơn là không sai.

    Tuy nhiên, sau khi cổ phần hóa, Công ty cổ phần xây dựng 71 đã được tách thành hai Công ty là Công ty cổ phần xây dựng 71 và Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CUBIC (theo trình bày của Công ty cổ phần xây dựng 71) và tại bản án phúc thẩm cũng xác định “sau khi cổ phần hóa Công ty cổ phần xây dựng 71 đã tách thành hai Công ty cổ là Công ty cổ phần xây dựng 71 và Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CUBIC…” nhưng lại không tiến hành thu thập tài liệu và xác minh làm rõ việc tách doanh nghiệp như thế nào. Nếu có việc tách doanh nghiệp thì phải áp dụng khoản 3 Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2005 để xác định trách nhiệm liên đới của Công ty bị tách và Công ty được tách về các khoản nợ chưa thanh toán, cụ thể là trách nhiệm của Công ty cổ phần xây dựng 71 và Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CUBIC chứ không phải chỉ là chuyện nội bộ của Công ty cổ phần xây dựng 71 và không liên quan đến Hợp đồng kinh tế số 611 đã thực hiện với Công ty TNHH Thiên Xứng như Tòa án cấp phúc thẩm nhận định.

    Theo Biên bản xác minh ngày 4/7/2009 tại Văn phòng Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CUBIC-Chi nhánh Nghệ An (Công ty CUBIC) tại địa chỉ km 00+700, quốc lộ 46, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thì được biết tại đây có dây chuyền thiết bị sản xuất tấm trần nhựa, dây chuyền sản xuất ống nước và dây chuyền sản xuất phụ kiện PVC. Nhưng không ai quản lý, sử dụng; không phải tài sản của Công ty CUBIC và Công ty CUBIC không nhận bàn giao của bất kỳ đơn vị nào; Công ty CUBIC đã nhiều lần gọi điện liên hệ và gửi Công văn yêu cầu Công ty TNHH Thiên Xứng di dời tài sản ra khỏi Chi nhánh hoặc thỏa thuận bảo quản trông coi tài sản cho Công ty TNHH Thiên Xứng nhưng Công ty TNHH Thiên Xứng không giải quyết.

    Vấn đề 03 dây chuyền sản xuất khi cổ phần hóa có đưa vào tài sản cổ phần hóa hay không, lý do tại sao và kể từ khi cổ phần hóa đến nay những ai quản lý, sử dụng và trách nhiệm đối với 03 dây chuyền sản xuất này như thế nào chưa được thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, xác minh làm rõ.

    Vì vậy kháng nghị cho rằng Tổng công ty xây dựng Miền Trung-đơn vị chủ quản của Công ty xây dựng 71 cũ phải chịu trách nhiệm trong việc giải quyết các tồn tại đối với Công ty xây dựng 71 (cũ) để lại là hoàn toàn chưa chắc chắn.

    Qua thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ đầy đủ làm rõ những vấn đề nêu trên mới có cơ sở xác định những ai liên quan có trách nhiệm trong việc thanh toán tiền 03 dây chuyền sản xuất cho Công ty TNHH Thiên Xứng theo Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003.

    Vì các lẽ trên;

    Căn cứ vào khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số18/2007/KĐTM-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2008/KĐTM-PT ngày 25/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Bùi Thị Hải Bùi Thế Linh

    (Đã ký) (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Nguyễn Văn Tiến

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 03:45:10 CH
     
    3370 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận