Quyết định giám đôc thẩm số 01/2008/KDTM-GĐT ngày 10-01-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng san lấp mặt bằng

Chủ đề   RSS   
  • #264078 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đôc thẩm số 01/2008/KDTM-GĐT ngày 10-01-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng san lấp mặt bằng

    Số hiệu

    01/2008/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đôc thẩm số01/2008/KDTM-GĐT ngày 10-01-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng san lấp mặt bằng

    Ngày ban hành

    10/01/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Quyết định giám đôc thẩm số01/2008/KDTM-GĐT ngày 10-01-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng san lấp mặt bằng

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

              …………….

              Ngày 10 tháng 01 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng san lấp mặt bằng giữa các đương sự:

              Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt; có trụ sở taio  423/27/5 đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Trần Văn Thành, Giám đốc công ty làm đại diện.

              Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam; có trụ sở tại: 192 đường Phùng Hưng,  phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; có ông Lê Văn Sen – Phó Giám đốc điều hành Công ty tham gia tố tụng, theo ủy quyền ngày 01-9-2006 của ông Trần Công Hoàng Quốc Trang, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam, làm đại diện.

    NHẬN THẤY:

              Theo đơn khởi kiện đê ngày 15-11-2004 và trình bày của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt (gọi tắt là bên A), thì:

              Ngày 01-01-2002 bên A có ký hợp đồng thi công san lấp mặt bằng với Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam (gọi tắt là bên B) do Giám đốc Trần Công Hoàng Quốc Trang ký.

              Hợp đồng thứ nhất số 7A/HĐKT có nội dung: bên B thuê bên A thi công san lấp nền hạ cụm công nghiệp nhựa thuộc Khu công nghiệp Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với các hạng mục.

              -Khi hoang, nạo vét, dọn dẹp mặt bằng.

              -San lấp nền hạ bao gồm(đào lắp, vận chuyển, lu nền, đầm nén theo  kỹ thuật thiết kế) khối lượng thi công tạm tính là 62.330m2 ; đơn giá 100.000 đ/m2; thành tiền là 6.233.000.000 đồng. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01-01-2002 đến 30-6-2004. Thực hiện hợp đồng này, bên B đã tạm ứng nhiều lần cho bên A tổng cộng là 4.100.000.000 đồng.

              Hợp đồng thứ hai số 7B/HĐTK với nội dung bên B thuê bên A thi công san lấp mặt bằng khu nhà ở công nhân; văn phòng giao dịch và đất công nghiệp cụm công nghiệp nhựa Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với các hạng mục:

              -Khai Hoang, nạo vét, dọn dẹp mặt bằng.

              -San lấp mặt bằng bao gồm: đào đắp, vận chuyển, lu nền, đầm nén theo cao trình và kỹ thuật thiết kế.

              Tổng diện tích tạm tính là 167.207m2; đơn giá 100.000 đồng/m2 thành tiền alf 16.720.000 đồng.Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01-01-2002 đến ngày 30-2004. Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty nhà nhựa đã ứng trước cho Công ty Tiến Đạt 1.255.000.000 đồng.

              Ngày 12.01.2004 Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam và Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt đã tiến hành thanh lý hợp đồng 7A và hợp đồng 7B.

              Tại biên bản thanh lý số 01/TLHĐ ngày 12-01-2004 của hợp đồng 7A hai bên đã xác nhận: “khối lượng thực hiện là 58.662m2, giá trị thanh lý là 5.866.200.000 đồng, Công ty nhà nhựa đã ứng trước 4.100.000.000 đồng. Còn nợ lại  1.766.200.000 đồng. Công ty nhà nhựa cam kết thanh toán cho Công ty Tiến Đạt từ tháng 2-2004 đến tháng 6-2004”.

              Tại biên bản thanh lý số 02/TLHĐ ngày 12-01-2004 của hợp đồng 7B hai bên đã xác nhận: “khối lượng thực hiện là 63.554m2, thành tiền là : 6.355.400.000 đồng; Công ty nhà nhựa đã ứng trước 1.255.000.000 đồng. Còn lại 5.100.000.000 đồng Công ty nhà nhựa cam kết thanh toán cho Công ty Tiến Đạt từ tháng 2-2004 đến tháng 6-2004”.

              Công ty Tiến Đạt trình bày hai bên tiến hành thanh lý hợp đồng trên cơ sở nghiệm thu khối lượng công trình nhiều lần thể hiện tại các biên bản nghiệm thu ngày 11-01-2003, ngày 20-02-2003, ngày 21-4-2003 và đã được bên A thống nhất ký kết.

              Nhưng đến tháng 6-2004 phía Công ty nhà nhựa vẫn chưa thanh toán công nợ, nay Công ty Tiến Đạt khởi kiện , yêu cầu Công ty nhà nhựa thanh toán hai khoản tiền trên tổng cộng là 6.866.200.000 đồng, được trừ 400.000.000 đồng tạm ứng sau thanh lý, còn phải thanh toán 6.466.600.000 đồng và tính lãi suất phát sinh theo quy  định của ngân hàng kể từ thời điểm tháng 6-2004 đến nay.

              Đại diện theo ủy quyền của phía bị đơn là ông Lê Văn Sen xác định việc ký kết hợp đồng, quá trình thực hiện và các biên bản thanh lý hợp đồng như phía nguyên đơn nêu  là đúng. Nhưng phía bị đơn nại rằng các biên bản thanh lý nhằm mục đích để bên B có cơ sở đối chiếu công nợ; chứ không phải để thanh toán vì hợp đồng này chưa được nghiệm thu; chỉ chấp nhận thanh toán trên cơ sở khối lượng thi công thực tế hoặc trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng công trình xấy dựng của cơ quan chuyên môn. Bị đơn cho rằng nguyên đơn thi công không đảm bảo chất lượng công trình như hợp đồng đã ký,thực tế khối lượng còn thiếu so với thiết kế là 45.410,83m3.

              Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/KTST ngày 23-02-2005 Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:


              “…Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải thanh toán khoản tiền còn lại trong việc thực hiện hai hợp đồng 7A, 7B ký ngày 01-01-2002 theo hai biên bản thanh lý mà hai bên ký ngày 12-01-2004.

              Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải có nghĩa vụ trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt số tiền là 6.592.159.816 đồng; trong đó:

              Tiền gốc là: 6.466.600 đồng

              Tiền lãi là: 125.559.816 đồng…”

              Ngày 03-3-2005 Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam có đơn kháng cao.

              Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 45/KTPT ngày 13-6-2005 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

              “…Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm. Giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung…”

              Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số03/2006/KDTM-ST ngày 28-6-2006 Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:

              “…Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải thanh toán  tiền thi công công trình còn nợ theo hợp đồng kinh tế 7A,7B ngày 01-01-2002 và hai biên  bản thanh lý ngày 12-01-2004 và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

              Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giớ Tiến Đạt số tiền 8.843.644.000 đồng bao gồm tiền nợ gốc 6.531.835.000 đồng (6.466.600.000 đồng là tiền nợ theo hợp đồng 7A, hợp đồng 7B + 65.253.000 đồng tiền cát tôn nền nhà ) và tiền lãi quá hạn (trên số nợ 6.466.600.000 đồng) là 2.311.809.000 đồng…”

              Ngày 12-7-2006, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam có đơn kháng cáo .

              Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số89/2006/KDTM-PT ngày 18-9-2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: “ Sửa án sơ thẩm”.

              Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải thanh toán tiền thi công công trình theo hợp đồng kinh tế 7A, 7B ngày 01-01-2002 và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

              Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt số tiền 2.050.562.102,86 đồng (hai tỷ không trăm năm chục triệu năm trăm sáu mươi hai ngàn một trăm lẻ hai đồng tám mươi sáu xu).

              (Trong đó tiền nợ và tiền lãi theo hai hợp đồng 7A và 7B là 1.985.327.102,86 đồng. Tiền cát tôn nền là 65.235.000 đồng).

              Về án phí: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 38.505.621 đồng.

              Công ty trách nhiệm hữu hạn thi công cơ giới Tiến Đạt phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 85.930.818 đồng..”.

              Sau khi vụ án được xét xử phúc thẩm lần thứ hai, Công ty trách nhiệm hữu hạn Tiến Đạt có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại vụ án thưo thủ tục giám đốc thẩm và Tòa án nhân dân tỉnh Long An có Công văn số371/CV-TA ngày 17-10-2006 kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên.

              Tại quyết định số06/2007/KN-KT ngày 27-7-2007 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số89/2006/KDTM-PT ngày 18-9-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/KTST ngày 28-6-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An  xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

              Tại Kết luận số17/KL-KT ngày 17-10-2007 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị số06/2007/KN-KT ngày 27-2-2007 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định hai bản thanh lý hợp đồng số 01/TLHĐ và số 02/TLHĐ ngày 12-01-2004 giữa công ty Tiến Đạt và Công ty nhà nhựa là hợp pháp, Công ty nhà nhựa có trách nhiệm thanh toán công nợ cho Công ty Tiến Đạt theo hai biên bản thanh lý hợp đồng này; vì vậy, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số89/2006/KDTM-PT ngày 18-9-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao taij thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

              Công ty nhà nhựa ký hợp đồng kinh tế số 7A và 7B ngày 01-01-2002 thuê Công ty Tiến Đạt thi công san lấp nền hạ và mặt bằng khu nhà ở công nhân , văn phòng giao dịch và đất công nghiệp tại Cụm công nghiệp nhựa Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An bao gồm các công việc: khai hoang, nạo vét, dọn dẹp mặt bằng; đào đắp vận chuyển, lu nền và đầm né theo cao trình kỹ thuật thiết kế. Kết quả công việc được tính theo diện tích hoàn thành bằng m2 và thanh toán cũng tính theo đơn vị là m2.

              Trên cơ sở các biên bản nghiệm thu, hai bên ký Biên bản thanh lý hợp đồng số 01/TLHĐ và số 02/TLHĐ ngày 12-01-2004 đã xác định khối lượng công việc được thực hiện theo hợp đồng số 7A là 58.662m2 và theo hợp đồng số 7B là 63.554m2. Công trình đạt chất lượng san lấp và cao trình như các điều khoản đã ký. Hai bên đã xác nhận số nợ mà Công ty nhựa còn phải thanh toán cho Công ty Tiến Đạt là 6.866.600.000 đồng; thời hạn thanh toán từ tháng 2-2004 đến tháng 6-2004.

              Toa án cấp sơ thẩm đã quyết định Công ty nhà nhựa phải thanh toán cho Công ty Tiến Đạt số tiền còn thiếu theo hai Biên bản thanh lý hợp đồng của hai bên ngày 12-01-2004 là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào hợp đồng và biên bản thanh lý hợp đồng giữa hai bên đã xác định kết quả công việc được tính và thanh toán theo m2; mà buộc Công ty nhà nhựa phải thanh toán cho Công ty Tiến Đạt tính theo m3 và đơn giá do tự đặt ra là không có căn cứ.

              Khi xét xử lại cần kiểm tra kỹ, đối chiếu giữa các bản nghiệm thu cụ thể, để đối chiếu với bản nghiệm thu tổng thể cho chính xác.

              Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự

    QUYẾT ĐỊNH:

              1.Hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số89/2006/KDTM-PT ngày 18-9-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng san lấp mặt bằng giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nhựa Việt Nam.

              2.Giao hồ sơ cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại phúc thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

                                 _______________________________

              Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:

              Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào hợp đồng và biên bản thanh lý hợp đồng giữa hai bên đương sự, nên giải quyết không có căn cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 10:29:32 SA
     
    3230 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận