Số hiệu
|
14/2011/HS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm kết án Vũ Văn Hùng về tội "Lưu hành tiền giả" và "Đánh bạc"
|
Ngày ban hành
|
15/08/2011
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
…
Ngày 15-8-2011, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
1. Vũ Văn Hùng sinh năm 1982; trú tại xóm 3, xã Kim Mỹ, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; con ông Vũ Hùng Sơn và bà Phạm Thị Thi; bị tạm giam từ ngày 31-3-2009 đến ngày 21-7-2009.
2. Nguyễn Văn Ban sinh năm 1970; trú tại khu 7, xã Hướng Đạo, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; con ông Nguyễn Văn Thao (đã chết) và bà Dương Thị Tô; có vợ và 03 con; bị tạm giam từ ngày 02-7-2009 đến ngày 10-8-2009.
(Trong vụ án còn có 18 bị cáo khác, bị kết án về các tội “Lưu hành tiền giả" và "Đánh bạc").
NHẬN THẤY:
Ngày 18-3-2009, Công an huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc bắt quả tang Nguyễn Thị Luyến đang lưu hành tiền giả trên địa bàn huyện Tam Dương. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra còn điều tra, làm rõ hành vi lưu hành tiền giả của Vũ Văn Hùng và một số bị cáo khác; hành vi gá bạc của Nguyễn Văn Ban và hành vi đánh bạc của một số bị cáo khác.
1. Về hành vi lưu hành tiền giả của Vũ Văn Hùng.
Khoảng tháng 02-2009, Vũ Văn Hùng và Trần Văn Sỹ đã 05 lần liên tiếp mua của Trần Hồng Sơn tổng số 5.800.000đổng tiền giả với giá bằng 40% tiền thật Hùng và Sỹ đem số tiền giả này đi tiêu thụ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Số tiền thật thu được trong các lần tiêu thụ tiền Việt Nam giả, Hung và Sỹ cùng nhau tiêu xài chung.
Ngày 16-3-2009, Vũ Văn Hùng được Trương Văn Thành rủ sang Trung Quốc mua tiền giả về Việt nam tiêu thụ. Trong lần này Thành đã mua 20. 000.000đồng tiền giả và 17-3-2009, Thành đưa 9.000.000 đồng tiền giả nhờ Hùng bán cho Nguyễn Văn Hường ( theo Hùng khai lần này Thành không chia tiền cho Hùng).
2. Về hành vi gá bạc của Nguyễn Văn Ban.
Nguyễn Thị Luyến sau khi mua 19.000.000đồng tiền giả của Nguyễn Văn Nghị đã nghĩ cách lưu hành tiền giả bằng hình thức đánh bạc. Luyến gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Ban, đề nghị Ban rủ thêm một số người đến nhà Ban đánh bạc. Nguyễn Văn Ban đồng ý và gọi điện thoại rủ một số bị cáo khác đến nhà để đánh bạc; cụ thể như sau:
Khoảng 20giờ ngày 16-3-2009, tại nhà Nguyễn Văn Ban, có 08 bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh bài tú lơ khơ. Một người đứng ra chia bài cho mọi người gọi là người cầm chương, mỗi người được chia 3 quân bài và đặt tiền trong khoảng từ 20.000.000 đồng đến 100.000 đồng tùy theo thỏa thuận với người cầm chương, bài ai cao điểm thì người đó thắng và ai được 10 điểm thì được cầm chương. Khi tham gia đánh bạc, Vũ Viết Khuynh có 300.000 đồng, Hoàng Văn Bình có 200.000 đồng, Phùng Văn Điệp có 2.200.000 đồng ( trong đó có 2.000.000 đồng là tiền giả, Luyến cho Điệp vay nhưng Điệp không biết là tiền giả), Hà Anh Tài có 500.000 đồng, Trịnh Văn Dinh có 300.000 đồng, Đỗ Văn Cường có 2.700.000 đồng, Lý Thị Hoa có 600.000 đồng tiền giả ( các bị cáo khác không biết Hoa dùng tiền giả đánh bạc) và Nguyễn Thị Luyến có 7.900.000 đồng ( trong đó có 7.400.000 đồng là tiền giả nhưng các bị cáo khác không biết là tiền giả).
Các bị cáo đánh bạc đến khoảng 01giờ ngày 17-3-2009 thì kết thúc, tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 14.700.000đồng (trong đó có 10. 000. 000đồng tiền giả và 4.700.000đồng tiền thật).
Khoảng 21 giờ ngày 17-3-2009, tại nhà Nguyễn Văn Ban, có 06 bị cáo đánh bạc vẫn với hình thức như ngày 16- 3-2009. Khi tham gia đánh bạc, Phùng Văn Điệp có 800.000 đồng, Hà Anh Tài có 1.000.000 đồng ( là tiền Luyến cho Tài vay nhưng Tài không biết là tiền giả), Kim Văn Dư có 400.000 đồng, Nguyễn Văn Toàn có 200.000 đồng, Đỗ Văn Cường có 300.000 đồng và Nguyễn Thị Luyến có 8.400.000đồng (trong đó có 8.000.000đồng tiền giả nhưng các bị cáo khác không biết là tiền giả).
Các bị cáo đánh bạc đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì kết thúc, tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc lần này là 11.100.000đồng (trong đó có 9.000.000đồng tiền giả và 2. 100.000đồng tiền thật).
Trong cả hai lần đánh bạc, Nguyễn Văn Ban không tham gia nhưng thu của mỗi người chơi 50.000đồng/1 lần; tổng số tiền Ban thu được của các bị cáo là 600.000đồng (gọi là tiền hồ).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2009/HSST ngày 24-9-2009, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc áp dụng khoản 2 Điều 180; các điểm p và q khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt Vũ Văn Hùng 06 năm tù về tội "Lưu hành tiền giả".
Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn Ban 01 năm 06 tháng tù về tội “ Gá bạc".
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với 18 bị cáo khác về tội "Lưu hành tiền giả” và tội "Đánh bạc".
Ngày 26-9-2009, Vũ Văn Hùng kháng cáo xin giảm hình phạt.
Ngày 01-10-2009, Nguyễn Văn Ban kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại Kháng nghị phúc thẩm số888/VKS-P1 ngày 06-10-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giảm mức hình phạt đối với Vũ Văn Hùng.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 737/2009/HSPT ngày 23-12-2009, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp đụng khoản 2 Điều 180; điểm g khoản 1 Điều 48; các điểm p và q khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 53 và Điều 60; xử phạt Vũ Văn Hùng 03 năm tù về tội "Lưu hành tiền giả”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày 23-12-2009.
Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm g khoản 1 Điều 48; các điểm h và p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn Ban 18 tháng tù về tội "Gá bạc", nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày 23-12-2009.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác có kháng cáo.
Tại Kháng nghị số24/2010/HS-TK ngày 16-8-2010, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 737/20091HSPT ngày 23-12-2009 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Hùng và Nguyễn Văn Ban; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật,
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao .
XÉT THẤY:
Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Vũ Văn Hùng về tội "Lưu hành tiền giả" và Nguyễn Văn Ban về tội "Gá bạc" là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, việc Tòa án cấp phúc thẩm cho các bị cáo Vũ Văn Hùng và Nguyễn Văn Ban hưởng án treo là chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vì các lý do sau đây:
- Vũ Văn Hùng đã cùng Trần Văn Sỹ trực tiếp 05 lần lưu hành 5.800.000đồng tiền giả, đi cùng Trương Văn Thành sang Trung Quốc để Thành mua 20.000.000đồng tiền giả về Việt Nam tiêu thụ và bán hộ Thành 9.000.000đổng tiền giả cho Nguyễn Văn Hường. Sau khi biết tin Trương Văn Thành bị bắt về hành vi lưu hành tiền giả thì Hùng mới ra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p và điểm q khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự và có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất của vụ án, vai trò, mức độ phạm tội, những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì việc Toà án cấp sơ thẩm xử phạt Vũ Văn Hùng 06 năm tù về tội "Lưu hành tiền giả" là có căn cứ. Việc Toà án cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho Vũ Văn Hùng xuống 03 năm tù và lại cho bị cáo hưởng án treo là không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tác dụng răn đe phòng ngừa đối với loại tội phạm nguy hiểm này. Tuy nhiên, khi xét xử phúc thẩm lại Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự nhưng không được cho bị cáo hưởng án treo .
- Nguyễn Văn Ban hai lần liên tiếp (ngày 16 và ngày 17-3-2009) dùng nơi ở của mình làm địa điểm, chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ cho các bị cáo khác đánh bạc và trong mỗi lần đánh bạc, tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc đều từ mười triệu đồng trở lên, đã thu lợi bất chính 600.000đồng. Khi được Nguyễn Thị Luyến đề nghị thì Ban đã gọi điện thoại rủ một số bị cáo khác đến đánh bạc. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội "Gá bạc" và không cho bị cáo hưởng án treo là đánh giá đúng tính chất của vụ án, vai trò, múc độ phạm tội của bị cáo. Toà án cấp phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) và cho bị cáo hưởng án treo là không đúng.
Ngoài ra, để quyết định tội danh và mức hình phạt phù hợp với tính chất, hành vi, mức độ phạm tội của Nguyễn Văn Ban thì khi xét xứ phúc thẩm lại cần cho đối chất giữa Nguyễn Vãn Ban và Nguyễn Thị Luyến để làm rõ việc Ban có biết Luyến dùng tiền giả để đánh bạc tại nhà Ban hay không? Ngoài hai lần gá bạc này thì Ban còn thực hiện hành vi gá bạc nào nữa không? Cần thông qua địa phương để làm rõ vấn đề: ngày 16 và ngày 17-3-2009 có phải là ngày gia đình bị cáo tổ chức dám cưới cho con gái hay không? nếu qua đối chất có cơ sở khẳng định Ban không biết việc Luyến dùng tiền giả để đánh bạc tại nhà Ban cũng như ngoài hai lần gá bạc trên thì Ban không có hành vi gá bạc nào khác và trong hai ngày 16 và ngày 17-3-2009 có việc gia đình bị cáo tổ chức đám cưới cho con thì nên xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ban nhưng cũng không được cho hưởng án treo.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285; Điều 287 và Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 737/2009/HSPT ngày 23-12-2009 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Vũ Văn Hùng và Nguyễn Văn Ban; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân do tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.