Quyết định 594/QĐ-CA Công bố 09 án lệ mới

Chủ đề   RSS   
  • #579028 31/12/2021

    HuyenVuLS
    Top 150
    Cao Đẳng

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:25/07/2009
    Tổng số bài viết (575)
    Số điểm: 30478
    Cảm ơn: 99
    Được cảm ơn 799 lần


    Quyết định 594/QĐ-CA Công bố 09 án lệ mới

    Tòa án nhân dân Tối cao vừa ban  hành Quyết định 594/QĐ-CA về việc công bố án lệ, theo đó có 09 án lệ mới được công bố như sau

    1. Án lệ 44/2021/AL: về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 10/2021/KDTM-GĐT ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng tư vẩn thiết kế" tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần H với bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P.
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tinh huống án lệ:
    Trong vụ án dân sự, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định yêu cầu phản tố của bị đơn chính là yêu cầu khởi kiện và phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện.
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ:
    “[2] về yêu cầu phản tố, nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm tại Bản án số 82/2020/KDTM-PT về việc yêu cầu phản tổ không bị giới hạn bởi thời hiệu khởi kiện (tr. 15) là không đúng. Theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu phản tố là yêu cầu không nằm trong yêu cầu của nguyên đơn, có thể được giải quyết bằng một vụ án độc lập; việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng vụ án là để kết quả giải quyết chính xác và nhanh hơn. Yêu cầu phản tố cũng chính là yêu cầu khởi kiện nên phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện. Do đó, trường hợp có yêu cầu phản tố và có đương sự trong vụ án đề nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện thì Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định xem yêu cầu phản tố có còn thời hiệu khởi kiện hay không mới đúng quy định pháp luật”

    2. Án lệ 45/2021/AL: về xác định bị cáo phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp “Phạm tôi chưa đạt”
     
    Nguồn án lệ:
    Bản án hình sự phúc thẩm số 395/2021/HS-PT ngàỵ 24/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án hình sự “Giết người” đối với các bị cáo Nguyễn Bá T, Phạm Hoàng T I, Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K
     
    - Tình huống án lệ:
    Bị cáo cố ý thực hiện hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của bị hại, bị hại bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ là 100%.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định là hậu quả chết người chưa xảy ra, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”.
     
    an-le
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    “[4] Vụ án cỏ đồng phạm, hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm; Nguyễn Bá T cho rằng bị hại cướp người yêu của mình nên đã rủ các đối tượng khác đến nhà anh Hong Quốc A trả thù và nói rõ mục đích tìm bị hại để “tiêu diệt nó ”. Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng TI không có mâu thuẫn với bị hại nhưng vẫn thống nhất ý chí cùng thực hiện theo chỉ đạo của Nguyễn Bá T. Các bị cáo nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của việc nhiều người đánh một người, cùng tác động vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể, có khả năng làm người bị hại từ vong nhưng vẫn thực hiện. Hành vi liên tục tấn công, dùng chân tay, đánh, đấm vào người, vào mặt; dùng thanh gỗ đập vào đầu bị hại cho đến khi người bị hại nằm bất động; trước khi bỏ đi còn hỏi “mày giết nó à?”, “mày chết chưa?... ” thể hiện rõ tính chất côn đồ và ý thức chủ quan của các bị cáo là cùng có ý tước đoạt tính mạng của bị hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Bá T, Phạm Quang V, Phạm Hoàng TI, Nguyễn Đỉnh Anh K về tội “Giết người ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
     
    [5] Theo Kết luận giám định pháp y thương tích số 68/TTPY ngày 16/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở Y tê H: “Anh Hồng Quốc A bị chân thương sọ não, hiện sống thực vật... Tỷ lệ tổn hại sức khoè là 100% ”. Như vậy, trong vụ án này, các bị cảo đã cố ý thực hiện hành vi nhằm tước đoạt đoạt tính mạng của bị hại nhưng hậu quả chết người không xảy ra, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự.

    3. Án lệ 46/2021/AL: về việc xác định tình tiết định khung hình phạt “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” trong tội “Dâm ô đối với trẻ em”
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 12/2020/HS-GĐT ngày 07/8/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Dâm ô đối với trẻ em” đối với bị cáo Đinh Quang D.
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tinh huống án lệ:
    Bị cáo là giáo viên nơi bị hại là trẻ em theo học, không trực tiếp giảng dạy bị hại, có hành vi dâm ô đối với bị hại.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định bị cáo phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em” theo điểm c khoản 2 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 1999 với tình tiết định khung hình phạt “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” (tương ứng điểm d khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” với tình tiết định khung hình phạt “Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục”).
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    “ [3] Đinh Quang D là giáo viên dạy môn địa lý của Trường trung học phổ thông L. Ngày 26/3/2017, D xuống khu học sinh dân tộc nội trú nhờ học sinh nam chặt chuối giúp ở phía sau khu tập thể của D, gặp T chơi ở phòng các học sinh nữ và biết T đang học lớp 10. Từ đó D và T thường hay nhắn tin cho nhau. Ngày 02/4/2017, T nhắn tin đến phòng D chơi và D cỏ hành vi dâm ô đổi với T. Do đó, D biết T được khoảng 1 tuần và biết T là học sinh của Trường trung học phổ thông L
     
    [4] Theo quy định tại điểm đ, e khoản 1 Điều 31 Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Điều lệ trường Trung học cơ sờ, Trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học thì nhiệm vụ của giáo viên bộ môn là phải bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của học sinh, phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác trong việc dạy học và giáo dục học sinh. Do đó, với tư cách là giáo viên của nhà trường, D phải có trách nhiệm giáo dục tất cả các học sinh của trường, trong đó có cháu Nguyên Thị T. Do đó, D phải bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng là “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục ” quy định tại điểm c khoản 2 Điểu 116 Bộ luật Hình sự năm 1999 mới đúng pháp luật

    Án lệ 47/2021/AL: về việc xác định tội danh trong trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đổc thẩm số 15/2020/HS-GĐT ngày 07/8/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết ngườĩ’ đối với bị cáo Nguyễn Đình Đ. 
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tình huống ản lệ:
    Bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng bụng của bị hại là vùng trọng yếu của cơ thể con người. Bị hại không chết là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định bị cáo chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người’”.
     
    NỘI DƯNG ÁN LỆ
     
    “[.2] Mặc dù giữa Nguyễn Đình Đ và anh Cao Văn C không cỏ mâu thuẫn trước đó, nhưng từ lời nói của anh cC “Tao thích đánh nhau, thích đổ thêm dầu vào lửa đấy. Mày là thằng nào mà đến đây hổ báo ", Đ cầm dao (loại dao dùng làm hàng mây tre đan, chuôi gỗ dài llcm , lưỡi bằng sắt dài 13,5cm, đầu mũi dao nhọn hơi cong, bản dao nơi rộng nhất 2,5cm) chỉ vào mặt anh C nói “Mày thích đánh nhau à ” rồi dùng dao đâm một nhát vào bụng anh C làm anh C bỏ chạy. Như vậy, chi vì lời nói của anh C có tính chất thách thức, kích động mà Đ đã dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng bụng (mạn sườn bên trái) cùa anh C là vùng trọng yếu trên cơ thể con người. Theo kết luận giám định thì anh C bị thương tích 05%, và đây là thương tích ở thời điểm giám định (sau gần 05 tháng vụ án xảy ra), không phải thương tích ở thời điểm xảy ra vụ án, nên không phàn ánh đúng thương tích cùa anh C và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc anh C không chết là ngoài ỷ muốn chủ quan của Đ. Do đỏ, hành vi nêu trên của Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và có tính chất côn đồ.

    Án lệ 48/2021/AL: về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “nộp lại tiền thu lợi bất chính”
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 03/2020/HS-GĐT ngày 22/4/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối caọ về vụ án “Đánh bạc” và "Tổ chức đánh bạc” đối với bị cáo Hồ Công Nhật Q, Hồ Viết H, Nguyễn Mộng V. Trả tiền mua cả đất và nhà mà lại không được sở hữu nhà
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tình huống án lệ:
    Bị can, bị cáo nộp lại tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    “[3] Khi xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo trên là không chỉnh xác, vì việc nộp lại tiền thu lợi bất chính không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự mà là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự... ’

    6. Án lệ 49/2021/AL: về xác định quyết định hành chính ban hành không đúng thẩm quyền
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 06/2019/HC-GĐT ngày 02/04/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” giữa người khởi kiện là ông Thái Văn N với người bị kiện là Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nhà thờ V.
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tính huống án lệ:
    Chủ tịch ủy ban nhân dân ban hành quyết định hành chính giải guyết tranh chấp đất đai mà tranh chấp đó liên quan đến hợp đồng về quyền sử dụng đất.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Chủ tịch ủy ban nhân dân ban hành quyết định hành chính giải quyết tranh chấp đất đai là không đúng thẩm quyền.
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    "[3] ... Ông N cho rằng ông đã được Linh mục quản nhiệm Nguyễn Quang D cùng đại diện Ban Quới chức họ đạo Nhà thờ V cho đất theo “ Tờ giao đất lập ngày 18/01/2003. Đại diện Nhà thờ V thừa nhận có "Tờ giao đất” như ông N trình bày, nhưng cho rằng ông N không thực hiện việc trao đổi vật tư để xây dựng Nhà thờ mới nên Nhà thờ không ra Ủy ban nhân dân xã xác nhận giấy giao đất cho ông N. Do vậy, tranh chấp giữa hai bên có liên quan đến hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa Nhà thờ V với ông N, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điêu 25 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, khoản 3 Điểu 26 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Chủ tịch ủy ban nhân dân tinh Đ ban hành Quyết định sổ 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa Nhà thờ V với ông Thái Văn N là không đúng thẩm quyền. 

    7. Án lệ 50/2021/AL: về quyền khỏi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 481/2012/DS-GĐT ngày 25-9-2012 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản ” tại tỉnh Thừa Thiên Huế giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn N với bị đơn là bà Nguyễn Thị T.
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tinh huống án lệ:
    Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản nhưng bản án, quyết định này chưa được thi hành do người được thi hành án không yêu cầu thi hành án và chưa nhận tài sản trên thực tế. Khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, người được Tòa án giao tài sản mới có ừanh chấp đòi lại tài sản được giao theo bản án, quyết định nêu trên.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định người đã được giao tài sản theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có quyền khởi kiện đòi lại tài sản.
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    “[4] Theo quy định của pháp luật thì quyền sử dụnạ đất của ông N đổi với đất tranh chấp đã được xác định tại Bản án phúc thầm sổ 43 ngày 13/5/1977 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên. Tòa án không được giải quyết lại quan hệ ai là chủ sử dụng đất hợp pháp, nhưng kiện đòi lại tài sản lại là quan hệ pháp luật khác. Nếu còn thời hiệu thi hành án thì ông N có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thực hiện giao đất theo Bản án số 43 ngày 13/5/1977 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên. Tuy nhiên, nay đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì ông N có quỵền khởi kiện đòi lại tài sản bằng vụ án dân sự mới. Trong trường hợp này, nếu không cỏ căn cứ xác định ông N đã từ bỏ quyền tài sản thì phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N”

    8. Án lệ 51/2021/AL: về xác định quyền sở hữu đối với khu vực để xe ô tô của nhà chung cư
     
    Nguồn án lệ:
    Bản án sổ 82/2020/DS-PT ngàỵ 06 + 23/3/2020 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng dịch vụ vô hiệu, yêu cầu công nhận quyển sở hữu tầng hầm!" giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần đầu tư Xây dựng và phát triên đô thị S với bị đơn là Ban Quản trị tòa nhà hỗn hợp H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 03 người.
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tình huống án lệ:
    Khu vực để xe ô tô của chung cư được xây dựng theo quy chuẩn và không được phân bổ vào giá bán căn hộ trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, Tòa án phải xác định khu vực để xe ô tô của chung cư thuộc quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư.
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    "[22] Căn cứ vào các quy định cũng như các văn bản trả lời của Bộ Xây dựng và Chỉ nhảnh Công ty Kiểm toán và Tư vấn E nêu trên xác định, phần diện tích thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu nhà chung cư là nơi để xe (xe đạp, xe cho người tàn tật, xe động cơ hai bảnh). Riêng đối với khu vực để xe ô tô trong tầng hầm do chủ đầu tư quyết định thuộc quyền sở hữu chung hoặc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư. Theo Hợp đồng mua bản căn hộ chung cư thì nơi để xe ô tô trong tầng hầm không được phân bố vào giả bán căn hộ nên xác định là sở hữu riêng của chủ đầu tư. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty S về việc công nhận quyển sở hữu phần diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 1 và tầng hầm 2 của Tòa nhà hỗn hợp H có địa chỉ tại 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội thuộc quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư là có căn cứ.”

    9. Án lệ 52/2021/AL: về hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất khi chưa đăng ký quyền sử dụng đất
     
    Nguồn án lệ:
    Quyết định giám đốc thẩm số 231/2020/DS-GDT ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về yêu cầu tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu ” giữa nguyên đơn là bà Tổng Thị Ư với bị đơn là ông Tống Thanh V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 46 người.
     
    Khái quát nội dung án lệ:
     
    - Tinh huống án lệ:
    Họp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được lập thành văn bản đã được công chứng, chứng thực; bên được tặng cho chưa đăng ký quyền sử dụng đất do trở ngại khách quan thì bên tặng cho tài sản chết.
     
    - Giải pháp pháp lý:
    Trường hợp này, phải xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.
     
    NỘI DUNG ÁN LỆ
     
    “[23] Khi xét xử lại vụ án, nếu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất xác lập vào ngày 14/6/2010 giữa cụ C1 (bên tặng cho) và ông V (bên được tặng cho) cỏ đù các điều kiện cần và đủ liệt kê dưới đây, thì phải công nhận hiệu lực của hợp đồng; các điều kiện đó là:
     
    [24] Hợp đồng đã thỏa mãn các điều kiện theo quy định cùa pháp luật về quyền tặng cho quyền sử dụng đất;
     
    [25] Cho đến khi chết, người tặng cho tài sản không cỏ văn bàn nào để thay thế hợp đồng tặng cho tài sản đã ký kết trước đó và không có hành động nào thể hiện sự thay đổi ý chí đã thể hiện tại hợp đồng tặng cho tài sản đã ký kết;
     
    [26] Người được tặng cho tài sản không thực hiện được việc đăng ký tài sản (quyền sử dụng đất) là do trở ngại khách quan về thủ tục hành chính (hoặc do trở ngại khách quan khác), không phải do ý chí chủ quan của người tặng cho tài sản. "
     
    >>> Tải toàn văn Quyết định 594/QĐ-CA tại file đính kèm

     

     
    3649 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận