Quy định về bảo lĩnh theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

Chủ đề   RSS   
  • #491505 11/05/2018

    Lilynguyen1608
    Top 500
    Female
    Lớp 3

    Quảng Ngãi, Việt Nam
    Tham gia:29/11/2017
    Tổng số bài viết (286)
    Số điểm: 4109
    Cảm ơn: 24
    Được cảm ơn 56 lần


    Quy định về bảo lĩnh theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

    1. Về khái niệm:

    Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

    Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam dối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án.

    Khi quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của họ. Đối tượng được áp dụng biện pháp này thường là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn hoặc bị can, bị cáo ốm đau.

    2. Các dạng bảo lĩnh:

    Hai dạng bảo lĩnh: tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh.

    –  Cá nhân nhận bảo lĩnh:

    + Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh

    + Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh là người thân thích của bị can, bị cáo  thì phải có từ hai người trở lên.

    Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

    –  Tổ chức nhận bảo lĩnh: phải thỏa mãn điều kiện là người được bảo lĩnh (bị can, bị cáo) phải là thành viên của tổ chức đó. Nếu là chính quyền địa phương đứng ra bảo lĩnh thì người được bảo lĩnh phải là người cư trú ở địa phương đó.

    Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Nội dung giấy cam đoan phải ghi rõ trách nhiệm của mình trong việc không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bảo lĩnh.

    3. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo được bảo lĩnh:

    Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

    - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;
     
    - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
     
    - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
     
    - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

    Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

    4. Những người có quyền ra quyết định bảo lĩnh:

    + Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

    + Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

    + Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

    + Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

    Trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì cá nhân hoặc tổ chức đó bị tước quyền nhận bảo lĩnh và phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan. Trong trường hợp này, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

    Mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng

    Trong cuộc sống thường ngày, hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng như nhau, chẳng qua là do cách phát âm khác nhau của từng vùng miền. Nhưng về mặt pháp luật, hai từ này lại là hai chế định hoàn toàn khác nhau: Bảo lãnh chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự, còn bảo lĩnh chỉ có trong tố tụng hình sự.

    Bảo lãnh, theo điều 335 Bộ luật dân sự 2015 là “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Đây là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình .

    Ví dụ: Một ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp đồng (bảo lãnh ngân hàng).

    Còn Bảo lĩnh, theo Bộ luật tố tụng hình sự là “biện pháp ngăn chặn”. Chỉ trong pháp luật tố tụng hình sự mới có khái niệm bảo lĩnh. Tuy nhiên, nhiều người, kể cả cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn quen gọi là bảo lãnh.

    Song song đó, cũng cần phân biệt biện pháp bảo lĩnh với một số biện pháp ngăn chặn khác được quy định tại Điều 122, Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đó là:

    - Cấm đi khỏi nơi cư trú: Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú.
     
    - Đặt tiền để bảo đảm: Bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền để bảo đảm, còn quy định cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền đã đặt.
     
    Trên đây là những quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo lĩnh. Mọi người tham khảo nhé!

    Gia đình là nơi cuộc sống bắt đầu và tình yêu không bao giờ kết thúc.

     
    32308 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận