KhacDuy25 viết:
Thân chào bạn ReamsX !
Theo như bạn phân tích thì mình xin hỏi bạn là pháp luật hình sự Việt Nam - cơ bản là Bộ luật hình sự có phải là đạo luật không?
Thời sinh viên, mình từng nghe Thầy bảo "Đạo luật hình sự", vậy thì theo bạn có phải không? Nếu có thì cơ sở nào cho rằng đây là đạo luật?
Rất vui được tham khảo ý kiến của bạn.
Thân ái!
Cảm ơn bác, sau khi tìm hiểu lại thì mình thấy quan điểm về đạo luật của mình bị sai, mình xin sửa lại :
+ Trước hết Hiến pháp được coi là đạo luật gốc, là đạo luật cơ bản nhất của một Nhà nước, tất cả các đạo luật khác phát sinh đều phải dựa trên các nguyên tắc và quy định của đạo luật gốc-hiến pháp.
+ trong ngành kế toán của Mỹ, Đạo luật Sarbanes-Oxley, còn được biết với tên Đạo luật Sarbox là một trong những luật căn bản của nghề kế toán, kiểm toán, được ban hành tại Hoa Kỳ năm 2002.
Từ 2 điều trên, mình rút ra đạo luật là những luật cơ bản nhất, xác định rõ nhất những nguyên tắc căn bản mà cá mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia đều phải tôn trọng và thực hiện nó. Những luật, bộ luật phát sinh đều phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản của đạo luật mà nó điều chỉnh
Ở đây, theo mình đạo luật hình sự là những gì cơ bản nhất mà bộ luật hình sự phải tôn trọng và dựa trên đó để phát triển, ví dụ dù bất cứ điều luật nào trong bộ luật hình sự được sinh ra, bãi bỏ... đều phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự (đạo luật hình sự) như :
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội.
Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 3. Nguyên tắc xử lý
1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục.
4. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
5. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
Điều 4. Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1. Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
2. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.