Rượu, bia có chứa cồn, tên hoá học là ethanol (C2H5OH) là một chất gây nghiện làm ức chế hoạt động của não bộ và hệ thống thần kinh trung ương. Ở Việt Nam, rượu bia được sử dụng rộng rãi đến mức không ít người cho rằng, việc sau khi uống rượu, bia làm mất trật tự, an toàn xã hội hay làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Vậy điều đó có đúng với quy định pháp luật hay không?
Người phạm tội khi say rượu, bia có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Một số người cho rằng khi chúng ta trong tình trạng say rượu, bia thì mất đi nhận thức và không điều khiển được hành vi của mình, cho nên việc phạm tội trong tình trạng này sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo Điều 13 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
“Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tôi trong tình trạng say rượu, bia vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Bộ luật này chỉ miễn trách nhiệm hình sự cho người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự căn cứ tại Điều 21 BLHS 2015 .
Việc phạm tội trong tình trạng say rượu, bia không nằm trong trường hợp không chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Bởi lẽ, trong tình trạng say do rượu, bia người say rượu, bia có thể bị giảm sút hoặc mất hoàn toàn năng lực nhận thức và điều khiển hành vi trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, khi người say do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác được cho là đã tự đặt mình vào tình trạng say. Họ đã tự tước bỏ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Không giống như việc mắc bệnh tâm thần, bệnh khác, người bệnh không thể phòng tránh được; việc say rượu, bia hoặc do dùng chất kích thích khác có thể phòng tránh trước.
Quy định này nhằm phòng chống, ngăn ngừa tội phạm lợi dụng tình trạng say rượu, bia và các chất kích thích khác để thực hiện tội phạm gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
![pham-toi-khi-say-ruou-bia](https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluat/ẢNH%20BÀI%20VIẾT/say%20rượu,bia-01.png)
Hình minh họa: say rượu bia
Người phạm tội hiếp dâm trong tình trạng say rượu, bia có phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
Theo Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và Điểm a, Điều b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 liệt kê một số các tình tiết được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định như sau:
1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
3. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
4. Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
5. Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
6. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
7. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
8. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
9. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
10. Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
11. Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
12. Phạm tội do lạc hậu;
13. Người phạm tội là phụ nữ có thai;
14. Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
15. Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
16. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
17. Người phạm tội tự thú;
18. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
19. Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
20. Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
21. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
22. Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Như vậy, trong các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 và Điểm a, Điều b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự 2017 thì không có trường hợp nào là người phạm tội trong tình trạng say rượu, bia được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì thế, người phạm tội hiếp dâm trong tình trạng say rượu, bia không được xem là tình tiết giảm nhẹ mà vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tùy theo mức độ nghiêm trọng mà định ra những khung hình phạt khác nhau:
Tội hiếp dâm được quy định tại Khoản 1,2,3 Điều 141 BLHS 2015 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 như sau:
Điều 141. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.