CÂU CHUYỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ :
Năm 2013 Bản án có hiệu lực tuyên ông A được sử dụng nhà đất (trị giá 5 tỷ) số AA đường X Thành phố H nhưng phải thanh toán kỹ phần thừa kế cho B, C, D và E mỗi người 1 tỷ đồng. Sau đó B không nhận mà cho A phần của mình, còn C đồng ý nhận tiền, ký giấy biên nhận mà không yêu cầu thi hành án, riêng D và E thì rủ nhau tới Chi cục thi hành án dân sự để tìm hiểu thông tin và được hướng dẫn "làm đơn yêu cầu thi hành án để khi thi hành xong sẽ được Nhà nước cấp giấy xác nhận đàng hoàng, tránh phiền phức về sau" nên nghe theo, làm và nộp ngay tại chỗ.
Việc thi hành án diễn ra rất suôn sẻ bởi ông A đã chuẩn bị sẵn tiền cho D và E, giữa anh em ruột của họ cũng chưa tới mức mâu thuẫn trầm trọng. Câu chuyện chỉ trở nên gay cấn khi A đã nộp tiền thi hành án phần của D và E cho Chi cục THADS. Trước đó Cơ quan này không hề giải thích nhưng khi đã nhận tiền xong thì Chấp hành viên lập tức yêu cầu ngoài tiền án phí theo Bản án, mỗi người còn phải nộp 30 triệu phí thi hành án (3%/1 tỷ đồng), B đã cho phần của mình thì B không phải chịu mà người nhận là A phải chịu luôn phần của B, tức A vừa phải chịu phần của mình vừa phải chịu phần của B ! Không ai phản đối án phí vì đúng Luật và Bản án đã thể hiện rõ nhưng phí thi hành án thì tất cả đều phản đối quyết liệt. D và E gào thét ầm ĩ, cho rằng mình đã bị Chi cục THADS "dụ" làm đơn yêu cầu thi hành án để bị mất mỗi người mấy chục triệu mà không sao cãi được ! Hơn nữa, không chịu thì cũng bị trừ trước khi được nhận tiền ! C bức xúc tại sao không yêu cầu thi hành án mà cũng phải chịu phí thi hành án ? A gay gắt yêu cầu giải thích tại sao ông không yêu cầu thi hành án và được anh mình (ông B) cho tiền ở bên ngoài mà cũng phải đóng phí thi hành án ?
Chi cục THADS giải thích căn cứ khoản 2 điều 2 Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010 của Bộ Tài Chính và Bộ Tư Pháp nên tất cả (kể cả người không yêu cầu thi hành án, người được cho) phải chịu phí thi hành án dân sự như vậy.
Nguyên văn khoản 2 điều 2 TTLT số 144/2010/TTLT-BTC-BTP :
“2. Đối với các vụ việc chia tài sản chung, chia thừa kế; chia tài sản trong ly hôn; vụ việc mà các bên vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ đối với tài sản được thi hành án (chỉ cần một trong các bên có đơn yêu cầu thi hành án), người nhận tài sản phải nộp phí thi hành án tương ứng với giá trị tài sản thực nhận tính trên tổng số tiền phí thi hành án phải nộp của các bên.
Thí dụ 1: Có 3 người được chia thừa kế một tài sản có giá trị 1 tỷ đồng. Người thứ nhất được nhận 20% giá trị tài sản. Người thứ hai được nhận 30% giá trị tài sản. Người thứ ba được nhận 50% giá trị tài sản. Số phí thi hành án phải nộp của từng người theo quy định trên được xác định như sau:
- Xác định tổng số phí thi hành án phải nộp: 3% x 1 tỷ đồng = 30 triệu đồng.
- Xác định số phí thi hành án phải nộp của từng người:
+ Người thứ nhất phải nộp là: 20% x 30 triệu đồng = 6 triệu đồng.
+ Người thứ hai phải nộp là: 30% x 30 triệu đồng = 9 triệu đồng.
+ Người thứ ba phải nộp là: 50% x 30 triệu đồng = 15 triệu đồng.
Thí dụ 2: Tòa án xử ly hôn giữa ông A và bà B, trong phần chia tài sản ly hôn, bà B được nhận nhà trị giá là 500 triệu đồng và phải thanh toán cho ông A 200 triệu đồng. Trong trường hợp này, số phí thi hành án mà các bên phải nộp được tính trên giá trị tài sản thực nhận của từng người, cụ thể như sau:
Số phí thi hành án ông A phải nộp là: 3% x 200 triệu đồng = 6 triệu đồng;
Số phí thi hành án bà B phải nộp là: 3% x (500 - 200) triệu đồng = 9 triệu đồng.”
Theo các bạn thì việc tính phí thi hành án của Chi cục THADS trong trường hợp này là đúng hay sai ?
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557
231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM