như vậy có bị coi là tội vu khống không ?

Chủ đề   RSS   
  • #403163 19/10/2015

    như vậy có bị coi là tội vu khống không ?

    Xin chào luật sư.

    Tôi tên là hoàng nghĩa dung. tôi và vợ tôi đã ly hôn tháng 06 năm 2015 và trong trích lục ly hôn phần tài sản có ghi rõ hai vợ chồng tự thỏa thuận.

    Tháng 7 năm 2015 tôi có làm thủ tục thỏa thuận văn bản tài sản vợ chồng tại văn phòng công chứng. tôi , con trai tôi, và vợ tôi đồng ý để tôi đứng tên 1 thửa đất ( nguồn gốc mẹ tôi cho tôi , cấp năm 2003 cấp cho hộ ông hoàng nghĩa dung ) . 3 người chúng tôi đồng ý ký vào văn bản thỏa thuận đó và được công chứng. Sau khi có văn bản tôi làn thủ tục để đổi bìa đứng tên là ông Hoàng Nghĩa Dung. khi biết tôi có bìa đỏ như vậy vợ tôi làm đơn tố cáo tôi thông đồng, câu kết với văn phòng công chứng giả mạo chữ ký của vợ tôi và gửi đơn tố cáo đến tất cả cơ quan có thẩm quyền như: cơ quan công an, UBND thị xã, UBND tỉnh, sở tài nguyên môi trường,các văn phòng công chứng trên địa bàn, cơ quan báo chí,..... Sau khi nhận được đơn tố cáo của vợ tôi các cơ quan liên quan vào cuộc . tôi bị công an mời lên làm việc. rồi vợ tôi có thuê nhà báo đến văn phòng công chứng để làm việc và nhà báo đã viết bài lên trang báo điện tử của họ. vợ tôi lấy đường link đó chia sẻ trên facebook nhằm bôi nhọ tôi và văn phòng công chứng. làm ảnh hưởng đến uy tín của tôi và uy tín cũng như mối làm ăn của văn phòng công chứng.

      Sau đó vợ tôi đề nghị giám định chữ ký thì đấy đúng là chữ ký của vợ tôi.

    Vậy tôi muốn hỏi vợ tôi làm đơn tố cáo tôi và văn phòng công chứng như vậy có cấu thành tội vu khống không?

    Văn phòng công chứng đó sau khi bị bài báo viết và đơn tố cáo như vậy uy tín bị giảm và khách hàng cũng giảm làm ảnh hưởng đến công việc làm ăn của họ.

    Xin chân thành cảm ơn quý luật sư.

     
    3194 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #403168   19/10/2015

    Anlhk33-DLU
    Anlhk33-DLU
    Top 75
    Male
    Lớp 6

    Nghệ An, Việt Nam
    Tham gia:10/05/2011
    Tổng số bài viết (834)
    Số điểm: 7872
    Cảm ơn: 215
    Được cảm ơn 338 lần


    Chào bạn.

    Trường hợp của bạn tôi tư vấn như sau:

    Theo như thông tin bạn đưa ra thì bạn và vợ đã đến văn phòng công chứng thỏa thuận giấy trắng mực đen về việc phân chia tài sản sau khi ly hôn nhưng người vợ nay lại tố cáo bạn giả mạo chữ ký, không có việc thỏa thuận việc ký kết đó. Vậy, vấn đề đặt ra nếu vợ, chồng bạn đã tiến hành việc thỏa thuận trên tại văn phòng công chứng là có thật, còn sau đó người vợ đã gửi đơn đến các cơ quan cho rằng không có việc đó thì Vợ bạn có thể phạm tội vu khống (điều 122)  hoặc làm nhục người khác theo quy định tại điều 121 Bộ luật hình sự.

    Điều 122. Tội vu khống

    1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:

    a)  Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    c) Đối với nhiều người;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

    đ) Đối với người thi hành công vụ;

    e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 121: Tội làm nhục người khác

    1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Đối với người thi hành công vụ;

    đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Như vậy, khi có việc người vợ  xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của bạn, tùy theo mức độ, người vợ rất có thể sẽ bị khởi tố hình sự với 2 tội danh như trên với điều kiện có yêu cầu khởi tố của bạn tại cơ quan điều tra sau khi tố giác tội phạm tại cơ quan điều tra gần nhất (Công an phường, xã, thị trấn nơi bạn cư trú). Điều này được quy định rõ tại điểm m khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số: 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Tài Chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố quy định về cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm trong đó bao gồm Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Công an.

    Theo đó, tại khoản 1 Điều 9, Thông tư này quy định:

    “Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra phải tiến hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố”.

    Tóm lại , bạn hoàn toàn có thể tố giác tội phạm đối với 2 tội danh nói trên tại cơ quan điều tra khi có những dấu hiệu bị xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của mình. Việc xác định tội danh nào thuộc về cơ quan điều tra.

    Còn đối với văn phòng công chứng việc gửi đơn thư tố cáo đó ảnh hưởng đến uy tín của Văn phòng công chứng thì văn phòng công chứng đó có thể tiến hành việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại tòa án có thẩm quyền.

    Trên đây là một vài trao đổi với bạn.

    Trân trọng!

    Hãy theo đuổi đam mê, thành công sẽ đến với bạn.

    Hotline: 0989.422.798. Luật sư - Hãng luật Hai Nguyen & Cộng Sự. Lya BuilDing, phòng 12 A, Chung cư Viện chiến lược Bộ Công An, Nguyễn Chánh, Cầu Giấy, Hà Nội.

    Website: http://lamchuphapluat.vn/

    Tư vấn luật miễn phí: http: http://duongleuocan.blogspot.com/

     
    Báo quản trị |  
  • #403188   19/10/2015

    hungmaiusa
    hungmaiusa
    Top 10
    Cao Đẳng

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/06/2013
    Tổng số bài viết (4119)
    Số điểm: 30115
    Cảm ơn: 963
    Được cảm ơn 1985 lần


    Chào bạn .

    Tôi cũng thấy có dấu hiệu của tội vụ khống.

    Tuy nhiên, vấn đề tôi muốn trao đổi với bạn là bạn đã từng là người chồng, đã và sẽ mãi mãi là người cha của con bạn.

    Con bạn, sau này sẽ là dâu, cháu nội sẽ nghĩ sao khi bạn là người tố cáo khiến vợ bạn vào tù.

    Thiên chức của người đàn ông là phải hy sinh cho gia đình, bạn nên bình tỉnh mà tìm cách giúp cho vợ, con bạn thay vì tìm cách "trừng trị" người thân của mình.

    Trước khi đám cưới chắc bạn có hứa với vợ bạn hoặc tự hứa với mình là sẽ che chở cho cô ấy suốt đời phải không? Lời hứa đó có thể bị hũy bỏ khi bạn ly hôn hay không?

    Mong bạn nghĩ đến con bạn và những ngày hạnh phúc trước đây.

     

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn hungmaiusa vì bài viết hữu ích
    ntdieu (19/10/2015)