Bản án số 05/KTPT ngày 30/3/2001 “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Hôm nay, ngày 30 tháng 3 năm 2001 tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối Cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm về kinh tế đối với vụ việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa:
- Nguyên đơn: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Phương Nam.
Trụ sở: 258 Minh Phụng, Quận 11, Thành Phố Hồ Chí Minh .
Đại diện: Ông Lê Hồng Sơn cán bộ pháp chế theo sự ủy quyền (có mặt).
- Bị đơn : Công ty TNHH Thành Đạt.
Trụ sở: K1/A 50 Hoàng Hoa Thám, phường Hiệp Thành, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Đại diện có ông Trần Minh Mẫn giám đốc Công ty (có mặt).
- Người liên quan:
Bà Nguyễn Ngọc Hạnh – 1960
Trú quán: 5/16, tổ 16, ấp 1, xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (có mặt).
Tóm Tắt Nội Dung Vụ Kiện:
-Nguyên đơn do ông Lê Hồng Sơn đại diện trình bày:
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam do Doanh nghiệp tư nhân xây dựng Minh Đạt (nay là Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Đạt) do ông Trần Minh Mẫn Giám đốc đại diện vay số tiền 750.000.000đ, theo hợp đồng tín dụng số 035/2/99 ngày 4/2/1999. Thời hạn vay là 6 tháng từ ngày 4/2/1999 đến 4/8/1999 và được Ngân hàng cho gia hạn đến ngày 4/2/2000, lãi suất 1,2%/tháng. Để đảm bảo cho khoản vay trên của Công ty TNHH Thành Đạt, ông Trần Minh Mẫn và bà Nguyễn Ngọc Hạnh đã làm hợp đồng thế chấp số 028/HĐTC/KD 99 thế chấp căn nhà số 38/1 ấp 1, xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một và 2 căn nhà không số đường Hoàng Hoa Thám, phường Hiệp Thành, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam. Hợp đồng thế chấp trên đã được công chứng viên Phòng công chứng nhà nước số 1 tỉnh Bình Dương chứng thực số 083 ngày 3/2/1999.
Cùng ngày 4/2/1999 Công ty TNHH Thành Đạt có mở tài khoản tại Ngân hàng, số tiền gửi vào là 150.000.000đ và cũng trong ngày 4/2/1999 Công ty TNHH Thành Đạt đã đóng tiền lãi cam kết 15.750.000đ.
Từ ngày vay đến nay Công ty TNHH Thành Đạt đã trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam các khoản tiền lãi sau:
-Ngày 4/2/1999 đến ngày 4/8/1999 trả 38.462.500đ.
-Từ ngày 4/8/1999 đến ngày 4/2/2000 trả 39.100.000đ.
-Từ ngày 4/2/2000 đến ngày 4/7/2000 trả lãi quá hạn 67.950.000đ.
Tổng cộng tiền lãi Công ty TNHH Thành Đạt trả 177.012.500đ và tiền vốn là 58.212.285đ. Trong số này phần lãi do Công ty TNHH Thành Đạt (ông Mẫn) trực tiếp nộp đến ngày 6/10/1999:84.003.700đ. Số tiền lãi còn lại 92.888.800đ và 58.212.285đ tiền vốn là do đến hạn trả nợ (từ ngày 10/6/1999 trở về sau) mà Công ty TNHH Thành Đạt không đến thanh toán nợ nên Ngân hàng Phương Nam tự trích từ tài khoản tiền gởi của Công ty TNHH Thành Đạt để trả nợ lãi và nợ vốn, tài khoản tiền gởi hiện không còn.
Hiện nay Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam yêu cầu Công ty TNHH Thành Đạt phải trả:
Tiền vốn: 691.787.715đ.
Tiền lãi: 191.135.000đ từ ngày 4/7/2000 đến 9/11/2000 (từ ngày Ngân hàng ngưng trích tài khoản tạm gởi của Công Thành Đạt đến hôm nay với mức lãi suất quá hạn 1,8%/tháng).
Bị đơn ông Trần Minh Mẫn trình bày:
Ông Trần Minh Mẫn thống nhất số nợ đã vay 750.000.000đ, nội dung hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp như đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam trình bày. Từ khi vay đến nay, Công ty TNHH Thành Đạt chưa trả vốn, có trả lãi từ ngày vay 4/2/1999 đến ngày 6/10/1999: 84.003.700đ. Hiện nay Ngân hàng còn giữ tiền gởi của Công ty 150.000.000đ từ ngày vay 04/02/1999 yêu cầu được rút số tiền này để xây dựng công trình đang dở dang, tạo điều kiện trả nợ cho Ngân hàng.
Hiện nay Công ty TNHH Thành Đạt đồng ý trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam theo số vốn 750.000.000đ với mức lãi theo quy định của Ngân hàng nhà nước đối với số nợ quá hạn.Nếu Ngân hàng không cho rút số tiền tạm gởi 150.000.000đ thì phải tính tiền lãi theo lãi suất tiền gởi. Công ty không đồng ý việc Ngân hàng tự trích tài khoản tiền gởi của Công ty để trừ vào vốn và lãi.
-Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Ngọc Hạnh thống nhất lời trình bày và có yêu cầu như bị đơn.
Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 02/KTST ngày 22-11-2000 Tòa án nhân dân Tỉnh Bình Dương quyết định:
1/ Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Phương Nam.
2/ Buộc Công ty TNHH Thành Đạt phải trả cho Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Phương Nam 715.840.000đ.
3/ Về án phí kinh tế sơ thẩm:
- Công ty TNHH Thành Đạt phải nộp 22.316.800đ.
-Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Phương Nam phải nộp 7.683.308đ khấu trừ tiền tạm ứng đã nộp 11.081.583đ.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyền về quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 29/11/2000 Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Phương Nam có đơn kháng cáo không đồng ý án sơ thẩm đề nghị xem xét lại vụ án.
Ngày 24/11/2000 Công ty TNHH Thành Đạt có đơn kháng cáo xin xem xét lại vụ án.
TÒA PHÚC THẨM TAND TỐI CAO TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Xét thấy :
Đơn kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn làm trong thời gian luật định nên được chấp nhận.
Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn cấp phúc thẩm thấy rằng: Hợp đồng tín dụng ngày 4/2/1999 số 035/02/99 giữa Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Phương Nam với Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Đạt. Số tiền vay là 750.000.000đ lãi suất là 1,2% tháng, thời hạn vay là 6 tháng, ngày thanh toán nợ là 4/8/1999. Sau đó được gia hạn đến ngày 4/2/2000. Lãi suất quá hạn là 1,8% vợ chồng ông Trần Minh Mẫn và bà Nguyễn Ngọc Hạnh thế chấp 3 căn nhà tại xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Việc thế chấp tài sản có hợp đồng số 028/HĐTC KD 99 được công chứng chứng nhận ngày 3/2/1999 và kèm theo các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà do các cơ quan có thẩm quyền cấp.
Án sơ thẩm xác định đây là hợp đồng thế chấp tài sản hợp pháp và theo quy định tại điều 359 Bộ luật dân sự: Bên vay nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ như điều luật đã quy định. Án sơ thẩm viện dẫn như trên là đúng.
Ngân hàng đã dùng số tiền 150.000.000đ của Công ty TNHH Thành Đạt gửi để giao dịch trong kinh doanh mà cấn trừ tiền lãi, tiền vốn đối với hợp đồng tín dụng số 035/02/99 mà không được sự đồng ý của chủ tài khoản. Án sơ thẩm xác định việc làm trên là trái pháp luật, vi phạm quyền sở hữu của Công ty TNHH Thành Đạt là có cơ sở.
Xét án sơ thẩm đã tách các mối quan hệ về hợp đồng kinh tế và hợp đồng gửi giữ để giải quyết từng mối quan hệ riêng rẽ khác nhau là có căn cứ. Bởi lẽ, việc vay nợ bên vay phải có nghĩa vụ thanh toán đúng hạn theo cam kết. Nếu đến hạn phải thanh toán mà thanh toán không đúng hoặc không thanh toán thì ngoài việc thanh toán vốn và lãi suất, bị đơn còn phải chịu lãi quá hạn theo quy định của pháp luật. Đối với số tiền vay 750.000.000đ. Án sơ thẩm buộc Công ty TNHH Thành Đạt trả vốn và chịu lãi suất quá hạn theo quy định của Ngân hàng nhà nước.Ở từng thời điểm mà không áp dụng lãi suất và lãi suất quá hạn ghi trên hợp đồng tín dụng là đúng theo thông tư Liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.
Tại công văn số 1000/KHXX ngày 28/8/1997 của Tòa án nhân dân tối cao về tính lãi suất quá hạn tiền vay Ngân hàng tại điểm b, khoản 1 giải thích rõ thực hiện khoản 3 phần I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 như sau: “Nếu hợp đồng vay tiền được xác lập từ ngày 1/10/1996 trở đi bị quá hạn, thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức trần lãi suất cho vay cùng loại được thống đốc Ngân hàng nhà nước công bố, không phụ thuộc vào mức lãi suất ghi trong hợp đồng”.
Án sơ thẩm giải quyết đúng theo quy định nghĩ nên, bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn đề nghị tính lãi suất theo hợp đồng và được sử dụng số tiền bị đơn gửi theo cách khấu trừ của nguyên đơn.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, cấp phúc thẩm thấy rằng số tiền gửi 150.000.000đ bị đơn yêu cầu không được khấu trừ vào việc trả lãi và vốn cho hợp đồng tín dụng ngày 4/2/1999. Và yêu cầu được tính lãi. Án sơ thẩm đã tách ra và chấp nhận yêu cầu của bị đơn, đó là hoàn lại cho bị đơn 150.000.000đ. Và lãi suất 6.447.500đ. Đồng thời tại Tòa sơ thẩm bị đơn cũng đồng ý sau khi tính lãi suất thì khấu trừ số nợ bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn. Các yêu cầu nầy đã được chấp nhận. Bị đơn kháng cáo cho rằng sơ thẩm chưa xem xét yêu cầu nầy là không đúng. Cách tính của sơ thẩm đúng nghĩ nên giữ y.
Riêng bị đơn còn kháng cáo số tiền nộp lãi cam kết ban đầu là 15.750.000đ chưa được sơ thẩm xem xét. Tại Tòa hôm nay hai bên xác định cụ thể như sau: Số tiền này đã tính trong số tiền lãi 84.003.700đ, cho nên cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ.
Xét việc thắc mắc của bị đơn về việc nguyên đơn không cho rút tiền gửi 150.000.000đ để hoạt động kinh doanh, nhưng thẩm tra tại Tòa phúc thẩm hôm nay bị đơn không có gì chứng minh việc nầy. Đồng thời chính bị đơn thừa nhận là tự mình mở tài khoản tại đây theo gợi ý của Ngân hàng. Do đó, không thể chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm trừ số tiền vay 150.000.000đ và 15.750.000đ chỉ tính lãi số còn lại theo quy định.
Xét án sơ thẩm xử đúng nghĩ nên giữ y.
Án phí phúc thẩm kinh tế nguyên đơn và bị đơn phải chịu theo quy định.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật thi hành.
TÒA PHÚC THẨM TAND TỐI CAO TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1, điều 70 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điều 359, điều 471 Bộ luật dân sự. Chấp nhận 1 phần yêu cầu của nguyên đơn. Buộc công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Đạt trả cho Ngân hàng thương mại Cổ phần Phương Nam 715.840.000 đồng và lãi suất phát sinh sau ngày xử sơ thẩm đến khi thi hành xong số nợ trên (theo thông tư số 01/TTLT ngày 19/6/1997 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản).
Các quyết định kháng của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật thi hành.
Án phí phúc thẩm kinh tế nguyên đơn, bị đơn mỗi bên chịu 200.000đ.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
|