Căn cứ vào điều 93, 47, 74 và Nghị quyết 01/2006/NQQ-HĐTP.
Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật.
Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quyết định của Bộ luật hình sự.
11. Về việc quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội.
11.1. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội thì cần thực hiện như sau:
a. Xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên;
b. Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này;
c. Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2 mức hình phạt đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này.
Ví dụ: A là người chưa thành niên phạm tội "vận chuyển trái phép chất ma tuý" thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 của BLHS, có khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù thì trước hết cần xem A là người đã thành niên phạm tội. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được áp dụng Điều 47 của BLHS, nếu A là người đã thành niên thì xét xử A mức hình phạt 12 năm tù là thỏa đáng. Vì A là người chưa thành niên, nếu A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 9 năm tù (3/4 của 12 năm tù); nếu A là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 6 năm tù (1/2 của 12 năm tù).
11.2. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội, cần phân biệt:
a. Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn (ba tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn đối với họ mà không được quyết định hình phạt tù dưới ba tháng.
b. Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội có số dư ngày không tròn tháng thì chỉ nên xử phạt mức hình phạt tù bằng số tròn tháng không lấy số dư ngày.
Bạn đọc ví dụ trên trong nghị quyết, ta có thể nhận thấy nếu T được áp dụng điều 47 và ở trên 14 đến dưới 16 tuổi thì hình phạt tù với T là thấp nhất.
Khi T được áp dụng điều 47 thì hình phạt thấp nhất của T là 7 năm (mức thấp nhất của khoản 2 Điều 93), nếu T lại là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì theo điểm c mục 11 của nghị quyết trên thì mức hình phạt của T là 1/2 của 7 năm tù = 3.5 năm tù.
Tất nhiên những điều đó chỉ là trên lý thuyết.
Trân trọng!!
Tư vấn pháp luật miễn phí - Đất đai - Thừa kế - Hôn nhân gia đình
Đoàn Ngọc Khải - 0965354008 - khai.doanngoc@gmail.com