Một vụ kiện chia di sản 13 năm Tòa sắp tuyên án ...

Chủ đề   RSS   
  • #347705 01/10/2014

    kieuht

    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:07/04/2008
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 1055
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Một vụ kiện chia di sản 13 năm Tòa sắp tuyên án ...

    Ngày 06/10/2014 Tòa tuyên án. Theo quý luật sư, Tòa tuyên như thế nào thì chấp nhận được?

    kieuhuynhthiq9@gmail.com 

     

     

    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

    ---------

    Quận 9, ngày 23 tháng 09 năm 2014

     

    Bản tự khai bổ sung của nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều

                                                        --------

               Ngày 23 tháng 09 năm 2014, tại số 5 Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh,

               Tôi tên là Huỳnh Thị Kiều sinh năm 1947.

                Địa chỉ thường trú: 5 Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

                 Địa chỉ liên lạc : như trên.

                 Là: đồng nguyên đơn với bà Đăng  Thị Tuyết.

                 Trong vụ ( việc ) : kiện , yêu cầu chia di sản thừa kế.

                 Do bản tự khai các năm trước... đến nay có nhiều thay đổi. Nay tôi xin tự khai bổ sung với nội dung gồm sáu mục như sau:

    -Khối di sản

    -Xác định các thừa kế

    -Mội số điểm trong các hồ sơ mua bán

    -Nêu vài chứng cứ xác định di sản chưa chia, đất tranh chấp

    -Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất của UBNDQ9

    -Đề nghị, kiến nghị.

    I.Về khối di sản:

            Di sản của ông Lê Văn Mân, Bà Nguyễn Thị Nhân, là ông bà nội của tôi - nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều -  để lại là một căn nhà và khoảng trên 1500 m2 đất thổ cư tập trung. Theo bản vẽ (bv) ngày 21/05/2007 còn 1.498,20m2. Sau khi làm đường, bản vẽ sau cùng ngày 12/11/2012 diện tích di sản còn  1.296,5m2 , tọa lại tại thửa 562, một phần các thửa 76, 87, 88, 89 thuộc tờ bản đồ số 56, P. Tăng Nhơn Phú A P.TNPA) , quận 9. Theo HĐĐG ngày 29/01/2013 xác định đơn giá QSD đất là 8.000.000đ/m2.

     

    Điểm lại quá trình làm chủ sử dụng và tranh chấp:

             Ông Mân ( chết 1928 ) vợ là bà Nhân ( chết 1952 ) được cha mẹ ( là ông Lủy ) cho đất để cất nhà ở và trồng hoa màu. Sau khi ông Mân, bà Nhân chết, con là Lê Thị Thu ở, quản lý. Năm 1972 bà Thu mất, nhà và đất do bà Ngởi (con thứ hai của ông Mân và bà Nhân) lui tới nhang khói và trông coi giữ gìn khu đất, nhà cửa, cây trái. Sau năm 1975 ông Lê Văn Trường ( con thứ 3 của ông Mân, bà Nhân, tham gia CM, sau 1954 về sống với vợ con tại quận Bình Thạnh), trở về ở nhà và sử dụng khu đất này.

               Năm 1995, do đời sống khó khăn,  ông Trường có cắt bán QSD một số đất, bằng giấy tay. Khi nghe tin việc mua  bán sang nhượng này, ngày 10/12/1999 các thừa kế có làm đơn tranh chấp, yêu cầu chia di sản thừa kế.

              Năm 2002 vụ việc được UBNDP.TNPA tổ chức hòa giải nhưng không thành, UBNDP.TNPA ký văn bản hướng dẫn các nguyên đơn khởi kiện ra tòa.

             TANDQ9 nhận đơn khởi kiện ngày 21/10/2002. Ngày 10/11/2003 TANDQ9 ra QĐ 53/ĐC đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do: “thời hiệu khởi kiện đã hết”.
             Các nguyên đơn kháng án, ngày 15/03/2004 TANDTPHCM  ra QĐ414/DSPT, cho rằng các nguyên đơn ( bà Tuyết, bà Kiều ) viết đơn khởi kiện ngày 21/10/2002 (còn trong thời hiệu – thời hiệu đến ngày 10/3/2003) “ nhưng đến ngày 16/5/2003 cả bà Tuyết và bà Kiều mới đóng tiền tạm ứng án phí. Thời điểm được xác định các đương sự chính thức khởi kiện được Tòa chấp nhận là ngày nộp tiền tạm ứng án phí. Đối chiếu với qui định trên thì bà Tuyết và bà Kiều đã hết quyền khởi kiện...”,  Do đó TANDTPHCM: “ Bác đơn kháng cáo của bà Đặng Thị Tuyết , giữ y  QĐ sơ thẩm số 53/ĐC ngày 10/11/2003 của TANDQ9”.

              Các nguyên đơn khiếu nại đến TANDTC yêu cầu Giám đốc thẩm. Ngày 26/07/2006 TANDTC ban hành QĐ 178/2006/DS-GĐT, theo TANDTC : “ Theo khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế thì thời hiệu là 10 năm tính từ ngày mở thừa kế đến ngày khởi kiện. Theo khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, khi hết thời hạn Tòa án gia hạn nộp tạm ứng án phí mà nguyên đơn không nộp thì Tòa án không thụ lý vụ án chứ không coi là nguyên đơn từ bỏ việc khởi kiện. Do đó, bà Tuyết, bà Kiều nộp đơn khởi kiện ngày 21-10-2002 vẫn còn thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm căn cứ vào ngày 16-5-2003 (ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm) để xác định thời hiệu khởi kiện và quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do hết thời hiệu khởi kiện là không đúng quy định của pháp luật...”  Từ đó TANDTC quyết định:

            “ Hủy QĐ 53/ĐC ngày 10-11-2003 của TANDQ9 và hủy QĐ 414/DSPT ngày 15-3-2004 của TANDTPHCM  về vụ tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Đặng Thị Tuyết và bà Huỳnh Thị Kiều với bị đơn là bà Lê Thị Cầu.

           Giao hồ sơ vụ án cho TANDQ9, TPHCM xét xử theo thủ tục sơ thẩm”.

            Chấp hành QĐ 178/2006/DS-GĐT ngày 26/07/2006 của TANDTC,  ngày 22/04/2013 TANDQ9  ban hành QĐ 65/2013/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, nhưng lại hoãn...

             Ngày 14/8/2014 TANDQ9 ban hành QĐ 178/2014/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm ngày 05/09/2014. Theo QĐ 188/2014/QĐ-HPT ngày 05/9/2014 của TANDQ9 hoãn  phiên tòa vì có nhiều người kế thừa của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt ...và quyết định mở lại phiên tòa vào ngày 29/9/2014.

     

    II.Xác định các thừa kế hàng thứ nhất :

    ( Xin xem sơ đồ đính kèm )

    Ông Mân ( chết 1928 ) vợ là bà Nhân ( chết 1952 ) có 05 người con. Cụ thể:

    1.Bà Lê Thị Ngởi – và chồng đã chết. Có 3 người con.

    2.Ông Lê Văn Trường cùng vợ và 2 người con đều đã chết.

    3.Bà Lê Thị Thu, chết năm 1972, không chồng con.

    4.Ông Lê Văn Mảng, chết 1967, có 2 bà vợ (đều đã chết 2007, 2013 ) và 3 người con.

    5.Bà Lê Thị Cầu chết 2013, chồng bà chết năm 1997. Bà Cầu có nhiều người con.

          Như vậy hàng thừa kế thứ nhất của ông Mân, bà Nhân gồm 4 người ( không tính bà Thu vì không chồng con và đã chết ). Bốn người đó là:

     

            1.Bà Ngởi: chồng đã chết, có 3 người con là ông Xương, bà Tuyết, bà Kiệm:

                Ông Xương chết, có vợ là bà Nguyệt và 05 người con.

                Bà Đặng Thị Tuyết. Không chồng con, còn sống.

                Bà Đặng Thị Kiệm, chết, không có chồng con.

                 Như vậy kỷ phần của bà Ngởi có bà Tuyết thừa kế, vợ và 5 người con của
                ông Xương thừa kế của ông.

     

            2.Ông Lê Văn Trường – (chết 1997, vợ ông chết 1999) ông có 2 người con:
              Một người tên là Xuân chết 1994, một người tên là Lê Kim Cúc chết 2010,
              Ông  Trường, vợ là Lê Thị Chuyện và con là Lê Kim Cúc cả 3 người lúc còn
              sống có bán bằng giấy tay một số QSD đất ở đây.

          

           3.Ông Lê Văn Mảng (chết năm1967), có 2 bà vợ và 3 người con:

              - Bà vợ thứ nhất tên là Huỳnh Thị Ba (chết 2007),  bà Ba có một con chung với
                ông Mảng tên là Huỳnh Thị Kiều.

              -Bà vợ thứ hai là bà Bùi Thị Thanh (chết năm 2013). Bà Thanh có 2 con chung
               với ông Mảng là Bùi Hồng Sơn và Bùi Minh Hải.

                      Như vậy, đối  với kỷ phần mà ông Mảng được hưởng thừa kế di sản của
              ông Mân và bà Nhân chết để lại chia cho 05 người: bà Ba, bà Kiều, bà Thanh,
             ông Sơn, ông Hải.

     

             4.Bà Lê Thị Cầu, có chồng và nhiều người con ( chồng bà Cầu chết năm 1997,
                bà Cầu chết năm 2013). Lúc còn sống bà Cầu  và ông Bàng ( con bà Cầu ) đã
                bán bằng giấy tay một số QSD đất ở đây. Kỷ phần của bà Cầu được hưởng thì
               nay các con của bà thừa kế.

         

             Theo quy định của pháp luật. Các thừa kế cùng  hàng thì có quyền lợi bằng nhau.

     

    III. Một số điểm trong các hồ sơ mua bán

             Như trên đã xác định đây là khối di sản, chưa chia nên không có thừa kế nào có toàn quyền định đoạt, kể cả bằng giấy tay. Hơn nữa di sản là bất động sản, loại tài sản phải đăng ký thì khi chuyển nhượng phải bằng hợp đồng có công chứng.

     

             Hồ sơ mua bán do phường cung cấp (theo thời gian ):

     

    1-Hồ sơ bán QSD đất cho ông Vũ Văn Phát : Báo cáo thực địa (18/10/1995 ) ghi: đất thổ cư do ông Lê Văn Trường đăng ký tạm. Nguồn gốc đất:

    -Trước năm 1975:  đất  do ông Lê Văn Lũy đứng bộ ( 1940 ) , 1945 cho con Lê Văn Mân sử dụng, năm 1950 ông Mân cho con Lê Văn Trường sử dụng .

    -Sau năm 1975: ông Lê Văn Trường tiếp tục sử dụng.

    Ngày 04/08/2004 ông Vũ Văn Phát đã được UBNDQ9 cấp GCN QSH nhà và QSD đất số 3721/2004 với diện tích đất là 187,1 m2.

     

    Hồ sơ  này có mấy lưu ý:

    +Đất của ông bà có bằng khoán, tức là đã có chủ.

    +Trong QĐ phúc thẩm 414/DSPT ngày 15/03/2004 có ghi ông Mân chết 1928, như vậy làm sao đến năm 1950 ông  Mân có thể cho ông Trường? Không có chứng cứ chứng minh của việc cho này. Đây là điều không thể chấp nhận.

    + Được biết: Trong kháng chiến chống Pháp, ông Trường có tham gia CM. Sau 1954 ông và vợ con trở về ở tại quận Bình Thạnh. Trước năm 1975 phần nhà và đất này bà Lê Thị Thu ( con ) quản lý sử dụng, bà Thu mất năm 1972, nhà và đất bỏ không,  bà Ngởi ( chị ruột bà Thu ) có lui tới trông coi , nhang đèn... Sau 1975 ông Trường mới từ quận Bình Thạnh về ở, sử dụng.

     

    Hồ sơ này có mấy chỗ sai như sau:

    Về người bán:

    1.Ông Trường chỉ là một đồng thừa kế của khối di sản không có di chúc và chưa chia theo pháp luật. Ông bán không có sự đồng ý của các thừa kế khác là sai quy định của Pháp luật về thừa kế, vì ông không đủ tư cách, thẩm quyền.

        QSD đất là bất động sản, loại tài sản chủ sử dụng phải đăng ký, việc mua bán phải bằng Hợp đồng công chứng, nên việc bán giấy tay không có công chứng chứng nhận là sai quy định của pháp luật.

     

     Về người mua: QSD đất là bất động sản,  loại tài sản chủ sử dụng phải đăng ký, người bán cũng không có giấy tờ gì chứng minh là tài sản của mình, việc mua bán phải bằng Hợp đồng công chứng, nên việc mua bằng giấy tay không có công chứng là sai quy định của pháp luật.

    Về chính quyền địa phương: Theo báo cáo thực địa, chính quyền địa phương biết rất rõ đây là di sản thừa kế không có di chúc và chưa chia, một thừa kế không đủ tư cách, thẩm quyền đứng ra bán. Thế mà cán bộ phường vẫn xác nhận (!). Đó là việc làm sai trái của cán bộ phường.

          Khu đất này đang tranh chấp, UBNDQ9 biết rất rõ ( xem CV 55/UB ngày 23/8/2002 và báo cáo số 51/BC-UB  ngày 10/10/2002 của UBND P.TNPA, và Giấy trả lời khiếu nại số 4406/UB-QLĐT ngày 25/10/2002;  CV 4712/CV-QLĐT tr/y: Trả lời đơn kiến nghị, ngăn chặn chuyển quyền của bà Đặng Thị Tuyết đề ngày 20/11/2002 của UBNDQ9). Thế mà ngày 04/8/2004 UBNDQ9 vẫn cấp GCN là sai quy định tại Điều 30 LĐĐ 1993, Điều 50 LĐĐ 2003 ...).

          Việc mua bán này là vi phạm pháp luật ( người bán không đủ tư cách và thẩm quyền ) đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên xử đúng quy định của pháp luật.       Việc UBNDQ9 cấp giấy chứng nhận sai đề nghị HĐXX tuyên xử theo Điều 21 NĐ 84/2007 ngày 25/05/2007 của Chính phủ.

          Tương tự UBNDQ9 cũng cấp GCN QSH nhà ở và QSD đất ở cho ông Huỳnh Văn Vinh ngày 04/5/2004, cấp GCN QSH nhà và QSD đất cho ông Phan Hữu Sơn ngày 23/10/2010; cấp Giấy phép xây dựng cho ông Phan Hữu Sơn ngày 16/5/2011. Về việc UBNDQ9 cấp Giấy phép XD cho ông Phan Hữu Sơn, ngày 20/5/2011 bà Tuyết có làm đơn khiếu nại, ngăn chặn ( biên nhận số 905+906  ngày 20/5/2011 của VPUBNDQ9 ), nhưng việc xây dựng vẫn tiến hành, hoàn tất!  Đề nghị HĐXX xem xét và tuyên xử đối với các giấy các giấy tờ mà UBNDQ9 cấp sai quy định của pháp luật.

         

    2-Giấy bán QSD đất cho ông Nguyễn Quang Bình ngày 20/07/1996, bán bằng giấy tay, bên bán cũng không có giấy tờ gì chứng minh mình có quyền được bán.

            Hồ sơ mua bán này cũng vi phạm pháp luật tương tự như hồ sơ mua bán nêu ở trên, đề nghị HĐXX tuyên xử đúng quy định của pháp luật.

     

    3-Hồ sơ bán QSD đất cho Nguyễn Văn Trung , Báo cáo thực địa 21/08/1997 ghi: Đất thổ cư do Lê Văn Trường đăng ký sử dụng 1993. Nguồn gốc đất:

    -Trước năm 1975: Do bà Lê Thị Thu sử dụng trồng hoa màu (đất ông bà cho sử dụng), đến năm 1972 giao lại cho anh Lê Văn Trường sử dụng.

    -Sau năm 1975: Ông Lê Văn Trường và vợ Lê Thị Chuyện sử dụng cho đến nay.

    Hồ sơ mua bán này cũng vi phạm pháp luật như các hồ sơ trên, đề nghị HĐXX tuyên xử đúng quy định của pháp luật.

     

    4-Hồ sơ giao QSD đất cho Bùi Minh Hải năm 1998, trong bản Báo cáo  thực địa ngày 01/06/1998 ghi : đất thổ cư do ông Lê Văn Trường đăng ký sử dụng năm 1993.

    Nguồn gốc lô đất:

    - Trước năm 1975: Ông Lê Văn Trường và vợ là Lê Thị Chuyện sử dụng trước năm 1950 ( đất do ông bà cha mẹ cho ).

    -Sau năm 1975: Ông Lê Văn Trường ( chết năm 1997 ) và vợ Lê Thị Chuyện tiếp tục sử dụng cho đến nay.

            Ngày 21/8/1998 bà Lê Thị Chuyện ký đơn xin giao đất cho ông Bùi Minh Hải 82,5m2 để cất nhà ở.

            Bà Chuyện là dâu làm sao có quyền giao QSD đất di sản của cha mẹ chồng (là ông Mân bà Nhân) cho ông Hải? Cả giấy thỏa thuận ranh đất cũng không có chữ ký của tổ trưởng Tổ dân phố ( theo mẫu )?

           Hồ sơ tặng cho QSD đất này vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX tuyên xử đúng quy định của pháp luật.

     

    5- Hồ sơ sang nhượng QSD đất cho Hoàng Đình Lâm năm 2004:

             Ngày 30/03/2002 bà Lê Thị Cầu viết giấy tay bán cho Hoàng Đình Lâm, lúc này đang tranh chấp, UBND phường Tăng Nhơn Phú A đã tổ chức hòa giải nhưng không thành nên hồ sơ này dừng lại. Sau khi có QĐ 414/DSPT ngày 15/03/2004 của TANDTP, đình chỉ vụ kiện, ngày 30/03/2004  bà Cầu chuyển cho con là ông Nguyễn Văn Bàng đứng tên lập giấy thỏa thuận bồi hoàn. Ngày 20/07/2004 UBNDQ9  ban hành quyết định 1352/QĐ-UB-QLĐT về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hoàng Đình Lâm ( GCN số X270994 ngày 24/09/2004).

            Được tin này, bà Đặng Thị Tuyết ( con của bà Ngởi ) thay mặt các nguyên đơn khiếu nại. Ngày 31/03/2009 UBNDQ9 ban hành quyết định 37/QĐ-UBND , chấp nhận khiếu nại của bà Tuyết. Và ngày 02/04/2009 UBNDQ9 ban hành quyết định 929/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho ông Hoàng Đình Lâm với lý do giấy chứng nhận được cấp khi đất đang có tranh chấp.

             Ngoài ra, sau khi hòa giải không thành, UBND P.TNPA cung cấp cho nguyên đơn hồ sơ để khởi kiện ra Tòa, gồm:

    -         Biên bản ngày 12/9/2001 UBNDP.TNPA làm việc tranh chấp giữa bà Cầu với bà Cúc, giữa bà Tuyết với bà Cầu.

    -         Đơn bà Cầu tranh chấp với bà Cúc 09/11/2001.

    -         Đơn bà Cầu tranh chấp với Vũ Văn Phát ( 09/01/2002 ).

    -         Đơn xin cho chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Bàng 23/05/2002.

    -         Biên bản làm việc của UBNDP.TNPA với Nguyễn Quang Bình  02/07/2002.

    -         Biên bản làm việc của UBNDP.TNPA với ông  Vũ Văn Phát, Nguyễn Văn Nam, Vũ Văn Nhứt ngày 02/07/2002.

    -         Biên bản đo đạc thực tế  ngày 25/06/2002 do yêu cầu của bà Cầu, bà Cúc, bà Tuyết, bà Kiều . Xác định vào thời điểm đó đã bán giấy tay và lấn chiếm thêm của 4 người, gồm:

    -         1.Vũ Văn Phát : 50,4 m2.

    -         2.Vũ Văn Nhứt: 20m2.

    -         3.Nguyễn Văn Nam 120,8 m2.

    -         4.Nguyễn Quang Bình: 181 m2

    Tổng cộng diện tích đã bán là: 437m2/1504 m2, còn 1.067 m2 ( kèm bản vẽ hiện trang do địa chính phường lập).

          Các QĐ của Tòa đến 26/07/2006 số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 11, nhưng nay lên đến hơn 39 người!?  Có người được cấp giấy chứng nhận, có người được cấp phép xây dựng!  Chúng tôi không thể có các hồ sơ mua bán sang nhượng QSD đất từ năm 2002 đến nay. Về việc này tôi đề nghị HĐXX yêu cầu UBNDQ9 phải làm rõ các căn cứ pháp lý để cấp các giấy tờ đó.

            Qua hồ sơ do phường cung cấp (đến năm 2002) thể hiện có một số người lấn chiếm hơn số diện tích đã mua. Theo bản vẽ, số người lấn chiếm ngoài diện tích “đã mua” cũng khá nhiều. Việc này tôi cũng đề nghị HĐXX tuyên xử đúng quy định của pháp luật.

     

    Những điểm sai phạm chính trong các hồ sơ trên :

    -Xác định đây là đất di sản, đất thổ cư, không phải đất nông nghiệp, vào thời điểm này điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, luật ĐĐ 1993, sđbs 1998, 2001, LĐĐ 2003, Pháp lệnh Thừa kế 1990, Nghị định 84/2004/ND-CP ngày 05/05/2007 của Chính phủ...

    -Nói đất do ông bà cha mẹ cho là sai, vì không thể có chủ thể là: ông bà cha mẹ. Hơn nữa bằng chứng nào xác định là do ông bà cha mẹ cho? Nếu không có giấy tờ phải có xác nhận của anh chị em đồng thừa kế về việc cho này. Chứ không thể chỉ đơn phương nói miệng là ông bà cha mẹ cho là được.

    -Nếu của cha mẹ, thì ông Trường được thừa kế ( nhưng phải làm thủ tục khai nhận di sản ), ông Trường chết, bà Chuyện cũng phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế của chồng. Lúc này Pháp lệnh thừa kế ban hành 1990, Bộ luật dân sự 1995 ... điều chỉnh việc này. Không thể chồng chết thì vợ đương nhiên có quyền. Nên khi di sản thừa kế chưa chia, chưa xác định quyền sử dụng cho cá nhân nào mà tiến hành mua bán là không đúng quy định của pháp luật.

     

    IV.Vài chứng cứ xác định Chính quyền hiểu rất rõ đây là đất di sản chưa chia, đất đang tranh chấp thể hiện tại các giấy tờ sau:

    -Biên nhận của VPUBNDQ9 nhận đơn xin chia và cấp QSD đất di sản thừa kế 10/12/1999 của bà Đặng Thị Tuyết. Ngày 21/01/2000, VP trả lời: VP Quận 9 đã chuyển TTUB nhưng còn chờ thẩm tra chưa có ý kiến giải quyết.

    -CV 55/UB ngày 23/08/2002 của UBNDP.TNPA v/v trả đơn tranh chấp nhà đất của gia tộc, nguyên đơn nhận lại hồ sơ để khởi kiện ra tòa.

    -CV 51/BC-UB ngày 10/10/2002 của UBNDPTNPA gửi UBNDQ9, PQLĐTQ9 báo cáo vụ việc tranh chấp, phường hòa giải không thành.

    -CV 4406/UB-QLĐT ngày 25/10/2002 của UBNDQ9 trả lời khiếu nại của bà Đặng Thị Tuyết về việc : Giải quyết tranh chấp đất thổ cư của gia tộc, và hướng dẫn khởi kiện ra tòa.

    -CV4712/CV-UB-QLĐT ngày 20/11/2002, của UBNDQ9 trả lời đơn kiến nghị ngăn chặn chuyển quyền của bà Đặng Thị Tuyết, công văn có chuyển cho UBNDPTNPA.

    -Các QĐ 53/ĐC, QĐ 414/DSPT, QĐ 178/2006/DS-GĐT của Tòa án ( đã nêu trên ).

     

            Tóm lại ông Trường, bà Chuyện, bà Cầu, bà Cúc, ông Bàng… không ai có đủ tư cách chuyển nhượng QSD đất là di sản của ông bà, cha mẹ chưa chia. Việc mua bán này là vi phạm quy định của pháp luật về dân sự, thừa kế và đất đai...

           Khẳng định đây là nhà, đất di sản, chưa chia, đang tranh chấp.

     

    V.Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất.

            Như trên đã trình bày đất thổ cư của ông  bà có bằng khoán, là di sản để lại chưa chia và không có di chúc, nên không một thừa kế nào có quyền mua bán định đoạt.

    UBNDPTNPA và UBNDQ9 biết rất rõ đất thổ cư, đất di sản ( thể hiện trong các báo cáo thực địa nêu trên ).

           Biết rõ đất có tranh chấp (qua biên nhận, hồ  sơ giải quyết, CV báo cáo, trả lời).

    Vụ việc tòa án đang thụ lý, giải quyết...

     

             Mặc dù TANDQ9 ( QĐ 53/ĐC,10/11/2003 ), TANDTP (QĐ 414/DSPT, 15/03/2004 ) đình chỉ vụ án do “hết thời hiệu khởi kiện thừ kế”, nếu đúng ( thực tế là không đúng, đã bị TANDTC ( QĐ 178/2006/DS-GĐT, 26/07/2006)  hủy  2 QĐ của Tòa Q9 và Tòa TP ) thì khối di sản này trở thành tài sản chung chưa chia. Khi đó cũng không ai có quyền mua bán, định đoạt gì cả.

     

           Việc mua bán, chứng nhận vào hồ sơ, cấp giấy CNQSD đất đều không đúng quy định của pháp luật. Về vấn đề này tôi đề nghị HĐXX tuyên xử đúng quy định của pháp luật. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ mua bán QSD đất sai pháp luật này cần được HĐXX xem xét.

            Các giấy tờ do UBNDQ9 cấp trong trường hợp này đều sai quy định của pháp luật, đề nghị HĐXX tuyên xử theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể theo điều 21 NĐ 84/2007/NĐ-CP ngày 5/05/2007 của Chính phủ. (Thực tế UBNDQ9 đã thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất cấp cho Hoàng Đình Lâm).

     

    VI.Đề nghị, kiến nghị :

    -Đề nghị:       

             Khối di sản ông Mân, bà Nhân để lại là ngôi nhà và 1.296,5m2 QSD đất tại bản vẽ ngày 12/11/2012, tọa lạc tại thửa 562, một phần các thửa 76, 87, 88, 89 thuộc tờ bản đồ số 56, P. Tăng Nhơn Phú A, quận 9.

            Trừ ra các phần không chia gồm:

    1.Nhà số 39/14, di sản ( ghi chú 13, bv 12/11/2012, lẽ ra phần này do di chúc quyết định): 45m2 ( 1).

    2.Khu mộ ( ghi chú 22,23,24,25, bv 12/11/2012 ): 80, 5 m2 ( 2)

    3.Lối đi chung ( ghi chú 36, bv 12/11/2012, lẽ ra phần này tính cho người nào bán): 63,5m2 (3).

    Vậy diện tích không chia là: (1)+(2)=(3) = 188,7 # 189 m2.

           Diện tích còn lại được đem chia là :1296,5 – 189= 1107, 5m2.

           Diện tích đem chia này chia đều cho 4 thừa kế hàng thứ nhất, mỗi kỷ phần là:

          1107, 5 m2: 4= 276,86 m2 ( 1* ).

          Phần của cha tôi là ông Lê Văn Mảng: 276,86 m2, chia cho 5 thừa kế của ông  là bà Ba, bà Kiều ( tôi ), bà Thanh, ông Sơn, ông Hải, mỗi kỷ phần được:

          276,86: 5= 55,37 m2.

          Mẹ tôi mất ( 2007), tôi  là con duy nhất của bà nên tôi được hưởng thêm phần của mẹ tôi. Tổng cộng tôi được hưởng:

          55,37 + 55,37= 110,74 m2. Tính tròn 110 m2.

           Như vậy tôi ( Kiều ) được 110 m2 QSD đất.

          Theo thực trạng:  Vừa qua đã xảy ra tình trạng sang nhượng mua bán, kể cả việc chính quyền cấp một số giấy chứng nhận, giấy phép xây dựng … đều không đúng theo quy định của pháp luật.

           Nhưng để đỡ phức tạp, tôi đưa ra phương án rất thiện chí là: Chỉ tính thu hồi và chia phần đất trống và phần đất do lấn chiếm, hoặc chỉ lợp mái tôn, sân: Tại các ghi chú : 1, 9, 11, 17,  21, 32, 35 ( bv 12/11/2012) , có diện tích tương ứng là : 72,5+59,6+ 336,7+21,5+24,8+ 37= 552,1 m2 ( 2*).

          Vì ông Trường và bà Cầu đã bán, người mua đã xây nhà với diện tích là:

           1.107,5 - 552,1 = 556,5m2 ,

           Diện tích đã bán này lớn hơn phần còn lại. Nên 552,1 m2 còn lại này chỉ chia cho 02 thừa kế hàng thứ nhất chưa được hưởng ( Bà Ngởi, Ông Mảng ), mỗi kỷ phần thừa kế hàng thứ nhất được:

          552,1 m2 : 02= 276, 05m 2  khớp với ( 1* ) trên đây,  nên rất khả thi.

           Từ phân tích nêu trên, tôi đề xuất phần tôi được hưởng 110 m2 quyền sử dụng đất di sản của ông bà tôi để lại ( như đã tính ở trên ). Tôi không nhận phần ngôi nhà di sản (nhà số 39/14, ghi chú 13, bv 12/11/2012) và đề nghị để làm nhà thờ. Người nào nhận thờ cúng thì sử dụng và chăm sóc khu mồ mã, không được bán hay cho thuê.           

            Nay tôi xin tự khai bổ sung để quý tòa được rõ.

    -Kiến nghị:

    1.Tôi đề nghị HĐXX tuyên xử tôi ( Huỳnh Thị Kiều ) được hưởng 110 m2 QSD đất di sản thừa kế của ông bà nội tôi là ông Mân, bà Nhân.

    2.Tôi đề nghị HĐXX tuyên xử  đối với các vụ việc mua bán QSD đất không đúng quy định của pháp luật.

    3.Tôi đề nghị HĐXX tuyên xử  đối với các quyết định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ khác do UBND quận 9 đã cấp sai quy định của pháp luật.

          Trên đây là một số ý kiến của tôi.

          Tôi xin trân trọng kính chào.

                                                                                            Nguyên đơn

     

     

     

     

     

     

                                                                                           Huỳnh Thị Kiều    

     

    DANH MỤC BẢN CHỤP CÁC CHỨNG TỪ GỬI KÈM

    --------

    1.     Bản sơ đồ xác định các thừa kế của ông Mân, bà Nhân.

    2.     Biên nhận của VPUBNDQ9 nhận đơn xin chia và cấp QSD đất di sản thừa kế 10/12/1999 của bà Đặng Thị Tuyết.

    3.     CV 55/UB ngày 23/08/2002 của UBNDP.TNPA v/v trả đơn tranh chấp nhà đất của gia tộc, nguyên đơn nhận lại hồ sơ để khởi kiện ra tòa.

    4.     CV 51/BC-UB ngày 10/10/2002 của UBNDPTNPA gửi UBNDQ9, PQLĐTQ9 báo cáo vụ việc tranh chấp, phường hòa giải không thành.

    5.     CV 4406/UB-QLĐT ngày 25/10/2002 của UBNDQ9 trả lời khiếu nại của bà Đặng Thị Tuyết về việc : Giải quyết tranh chấp đất thổ cư của gia tộc, và hướng dẫn khởi kiện ra tòa.

    6.     CV4712/CV-UB-QLĐT ngày 20/11/2002, của UBNDQ9 trả lời đơn kiến nghị ngăn chặn chuyển quyền của bà Đặng Thị Tuyết, công văn có chuyển cho UBNDPTNPA.

    7.     Biên bản ngày12/9/2001 UBNDP làm việc tranh chấp giữa bà Cầu với bà   Cúc, giữa bà Tuyết với bà Cầu.

    8.     Đơn bà Cầu tranh chấp với bà Cúc  9/11/2001.

    9.     Đơn bà Cầu tranh chấp với Vũ Văn Phát ( 09/01/2002 ).

    10.                         Biên bản làm việc của UBNDP .TNPA với Nguyễn Quang Bình  02/07/2002.

    11.                         Biên bản làm việc của UBNDPTNPA với ông  Vũ Văn Phát, Nguyễn Văn Nam, Vũ Văn Nhứt ngày 02/07/2002.

    12.                         Biên bản đo đạc và bản vẽ thực tế  ngày 25/06/2002 do yêu cầu của bà Cầu, bà Cúc, bà Tuyết, bà Kiều .

    13.                        Báo cáo thực địa 18.10.1995 ( HS bán cho Vũ Văn Phát )

    14.                        GCN QSH nhà QSD đất 3721/2004 ngày 04/08/2004 cấp cho Vũ Văn Phát

    15.                        GCN số 1892/2004 ngày 04/05/2004 cấp cho ông Huỳnh Văn Vinh

    16.                        GCN số  BC 512454 ngày 23/12/2010 cấp cho ông Phan Hữu Sơn

    17.                        Giấy phép XD số 603/GPXD cấp cho ông Phan Hữu Sơn ngày 16/5/2011

    18.                        Đơn yêu cầu ngăn chặn chuyển dịch và xây dựng ngày 19/5/2011 của bà Đặng Thị Tuyết

    19.                        Biên  nhận đơn số 905+906 ngày 20/5/2011 của VPUBNDQ9

    20.                        Giấy thỏa thuận mua bán đất cho ông Nguyễn Quang Bình ngày 20/7/1996

    21.                        Báo cáo thực địa 21/8/1997 ( HS bán cho Nguyễn Văn Trung )

    22.                        Đơn xin giao đất 21/01/1998 của Lê Thị Chuyện cho Bùi Minh Hải

    23.                         Báo cáo thực địa 1/6/1998 để giao đất cho Bùi Minh Hải

    24.                        Giấy sang nhượng đất 30/3/2002 của bà Lê Thị Cầu cho ông Hoàng Đình Lâm

    25.                        Bảng tường trình ngày 04/07/2002 của ông Hoàng Đình Lâm

    26.                        Đơn xin cho chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Bàng 23/05/2002

    27.                        QĐ 929/QĐ-UBND ngày 02/04/2009 của UBNDQ9 thu hồi GCN QSD đất của Hoàng Đình Lâm.

    28.                        Ý kiến của Luật sư trên www.thuvienphapluat.vn

    29.                         Trích Điều 30 LĐĐ 1993, Điều 50 LĐĐ 2003, Điều 21 NĐ 84/2007/NĐ-CP

     

     

     

    Theo quý vị tòa tuyên như thế nào là chấp nhận được?

     
    4162 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận