Hợp đồng hợp tác là hợp đồng được ký giữa các bên nhằm hợp tác đầu tư, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, tài sản theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế. Các nhà đầu tư cùng hợp tác với nhau phải thực hiện theo nguyên tắc này, trường hợp các bên không đảm bảo thực hiện đúng chỉ tôn của hợp đồng sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp.
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND cấp cao tại Đ.N nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, giữa nguyên đơn, ông V.K Quang; bà N.T Sáu với bị đơn ông P.C Hùng đã được TAND thành phố Q.N tỉnh B.Đ xét xử theo Bản án dân sự có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.
1. Nội dung vụ án
Ngày 11/9/2017, Công ty TNHH đấu giá tài sản N.V tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án đối với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích 474,3m2 tại thôn P.T, xã P.T, huyện T.P, tỉnh B.Đ. Ông P.C Hùng nộp tiền đặt cọc 100 triệu đồng để tham gia đấu giá, nhưng trong hồ sơ đăng ký đấu giá ông Hùng để ông N.C Huy đứng tên. Sau đó, trúng đấu giá thửa đất trên với giá 890 triệu đồng, nhưng không đủ tiền mua.
Ngày 25/9/2017, ông P.C Hùng huy động bà N.T Sáu và ông V.K Quang cùng góp vốn mua toàn bộ nhà, đất nêu trên. Bà Sáu, ông Quang và ông Hùng đã lập Hợp đồng góp vốn có nội dung: “Số tiền mua nhà, đất là 890 triệu đồng, chia làm 03 phần, mỗi người góp 297 triệu đồng, ông Hùng giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P cập nhập sang tên ông N.C Huy; ông Quang và bà Sáu có trách nhiệm nhận và quản lý tài sản.
Ngày 02/02/2018 Ông Huy đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Sáu và ông Quang nhiều lần nói ông Hùng, yêu cầu ông Huy ủy quyền sở hữu nhà, đất cho 03 người, nhưng ông Hùng nói ‘‘không mất đâu, có gì ông Hùng chịu trách nhiệm ”.
Sau đó, ông Hùng đại diện đứng ra cho vợ chồng bà H.T.L Trâm, ông Đ.T.T Tuấn thuê nhà. Đến ngày 17/10/2019, có người đến nhận nhà, đất, ông Quang và bà Sáu mới biết nhà đất nêu trên đã bị chuyển nhượng. Bà Sáu và ông Quang không nhận được tiền thuê nhà và tiền chuyển nhượng nhà, đất • từ ông Hùng và ông Huy.
Bà Sáu và ông Quang khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hủy Hợp đồng góp vốn buộc ông P.C Hùng trả lại số tiền góp vốn mỗi người là 297 triệu đồng.
2. Quá trình xét xử
Ngày 23/9/2020 TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ, ban hành bản án dân sự sơ thẩm số 148/2020/DS-ST với các nội dung:
(1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V.K Quang, bà N.T Sáu.
- Tuyên bố hủy bỏ Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017.
- Buộc ông P.C Hùng có nghĩa vụ hoàn trả cho ông V.K Quang 297 triệu, và bà N.T Sáu 297 triệu đồng.
(2) Đình chỉ xét xử phần yêu cầu khởi kiện ông P.C Hùng trả lãi đối với sổ tiền góp vốn của mỗi người.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định.
Ngày 21/01/2021, bị đơn ông Phan Cao Hùng có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
Ngày 23/4/2021, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đ.N có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đ.N hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 48/2021/DS-GĐT ngày 09/7/2021 của TAND cấp cao đã chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND cấp cao, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Q.N xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Sau khi lập hợp đồng góp vốn của ba người là ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu mua tài sản trúng đấu giá quyền sử dụng đất với số tiền mỗi người là 297 triệu đồng.
Ngày 02/02/2018, Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P, tỉnh B.Đ chỉnh lý biến động sang tên ông N.C Huy. Như vậy, Hợp đồng góp vốn đã có hiệu lực và là tài sản chung của ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu.
Các bên thỏa thuận khi ông Huy được đứng tên trên Giấy chứng nhận, ông Hùng có trách nhiệm giữ Giấy chứng nhận; còn ông Quang và bà Sáu là người quản lý tài sản.
Ngày 20/4/2018, ông Hùng đại diện ký Hợp đồng cho thuê nhà với bà Trâm.
Ngày 22/5/2018, ông Huy lập Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất nêu trên cho ông Thắng.
Ngày 14/02/2019, ông Thắng chuyển nhượng lại cho ông Toàn.
Như vậy, Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 giữa ông V.K Quang, bà N.T Sáu và ông P.C Hùng đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, nhưng TAND thành phố Q.N lại tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 là không có căn cứ và quá trình giải quyết vụ án, do chưa có lời khai của ông Huy và ông Hùng.
Nên tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ được ông Quang và bà Sáu có đồng ý cho ông Hùng ký hợp đồng thuê nhà với bà Trâm hay không?
Khi ông Huy chuyển nhượng nhà đất cho ông Thắng, ông Hùng có đồng ý hay không?.
Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để cho rằng ông P.C Hùng và ông N.C Huy tự ý chuyển nhượng tài sản nếu để tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 và buộc ông Hùng hoàn trả lại số :tiền góp vốn cho ông V.K Quang, bà N.T Sáu mỗi người 297 triệu đồng là chưa đủ căn cứ.
Trên đây là vi phạm của TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, VKSND cấp cao tại Đ.N thông báo đến VKSND các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát.