Chào anh! xin cảm thông với anh trong hoàn cảnh này!
Về phần trình bày trên của
QuyetQuyen945 là hợp lý rồi, tuy nhiên tôi xin được nhấn mạnh thêm, trong trường hợp trên đạo đức, nhân cách người phụ nữ này thật đáng trách.
Vì vậy tôi xin khuyên anh, nếu đó là tài sản do mẹ anh
cho khi kết hôn chưa rõ là cho chung hai vợ chồng hay cho riêng mình anh.
Trường hợp này nếu là cho riêng anh, nên chứng minh tài sản này là của anh được tặng cho riêng mình anh, và anh phải có nghĩa vụ chứng minh.
Tôi xin trích dẫn Luật để anh tham khảo thêm!
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung Chúc anh sớm giải quyết hợp lý!
"Sông có thể cạn, núi có thể mòn_Song chân lý không bao giờ thay đổi"