Chào bạn.
Tại khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân và gia đình có quy định:
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình có quy định:
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.
Như vậy, hai mảnh đất của cha mẹ ban được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên được xem là tài sản chung của vợ chồng, do vậy, dù cho một mình cha bạn đứng tên thì vẫn là tài chung của vợ chồng nên khi mua bán, chuyển nhượng, định đoạt dĩ nhiên phải có ý kiến cho mẹ bạn chứ một mình cha bạn không có quyền định đoạt toàn bộ.
Mẹ bạn muốn cùng đứng tên với chồng về hai mảnh đất này có thể liên hệ tại văn phòng đăng ký đất đai, xuất trình giấy chứng nhận kết hôn, giấy tờ tùy thân của hai vợ chồng cùng giấy chứng nhận hai mảnh đất để yêu cầu bổ sung tên của mẹ bạn vào trong giấy chứng nhận.
Thân mến