Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Đức Long - luatsuduclong

21 Trang «<6789101112>»
  • Xem thêm     

    24/07/2013, 05:45:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai năm 2003  quy định về Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:

    "1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:

    a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

    b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

    2. Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Trường hợp các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho các bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính.

    Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ".

    Như vậy, thời hạn giải quyết thủ tục hành chính về đăng ký chuyển quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở tính từ thời điểm bạn nộp hồ sơ hợp lệ đến khi lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là 20 ngày làm việc.

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/07/2013, 10:59:12 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Việc chuyển nhượng cổ phần và tăng vốn điều lệ được thực hiện như sau:

    1. Thực hiện thủ tục chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông.

    2. Thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp: Chuyển nhượng cổ phần; Tăng vốn điều lệ.

    Trong quá trình thực hiện thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp cần soạn thảo rất nhiều văn bản đòi hỏi sự chính xác cao, Bạn nên nhờ một tổ chức luật sư thực hiện dịch vụ cho bạn.

  • Xem thêm     

    24/07/2013, 09:57:33 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Với nội dung thông tin bạn cung cấp, Luật sư Nguyễn Đức Long - Văn phòng luật sư Đức Tín thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    Về tư cách khởi kiện vụ án tranh chấp nêu trên thì các thành viên trong xóm bạn không có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình vì xóm bạn sẽ không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 (các giấy từ về quyền sử dụng đất, giao dịch về đất, các giấy tờ giải quyết tranh chấp đất đai) nên Tòa án sẽ không thụ lý vụ án.

    Muốn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích công cộng thì cá nhân ông Tuấn không thể khởi kiện được mà phải do cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện.

    Theo quy định tại Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011 quy định về Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước như sau:

    "1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.

    2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.

    3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách".

    Như vậy, theo viện dẫn tại khoản 3 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011 quy định về Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước thì chỉ có UBND xã mới có tư cách chủ thể đứng ra khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp nêu trên để bảo vệ lợi ích công cộng. Tuy nhiên, để giải quyết được vấn đề này cũng khó có thể thực hiện được vì UBND xã là cơ quan thẩm định và kiến nghị UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiền.

    Vấn đề khởi kiện vụ án tranh chấp nêu trên có thể thắng kiện được hay không phụ thuộc vào yếu tố trên và chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình có căn cứ.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    23/07/2013, 05:31:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Năm 1988 cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã có hiệu lực pháp luật, phần quyền sử dụng đất theo thỏa thuận đã thuộc về cha bạn, đến nay cha bạn mất nên di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn trong đó có mẹ và anh chị em bạn.

    Về nguyên tắc, đất chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chưa được phép chuyển nhượng. Vì vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên bị vô hiệu cho dù việc chú bạn chuyển nhượng đất có cả dấu vân tay của mẹ bạn và chữ ký của bạn.

    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Thân!

  • Xem thêm     

    23/07/2013, 09:49:11 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Luật doanh nghiệp đã quy định cụ thể vấn đề này rồi, việc cơ quan Nhà nước tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp là trái pháp luật, trong trường hợp có phát sinh tranh chấp thì quyền và lợi ích của cơ quan đó sẽ không được pháp luật bảo vệ.

    Thân!

  • Xem thêm     

    18/07/2013, 02:12:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trước hết tôi chia buồn với những mất mát và bất công của gia đình bạn.

    Nhà đất có nguồn gốc do các cụ để lại cho ông bà nội bạn, ông bà nội bạn là chủ sử dụng ngôi nhà và thửa đất trên. Năm 1994, ông nội bạn mất không để lại di chúc chia tài sản của mình cho người thừa kế nên tài sản của ông nội bạn có 50% trong khối tài sản chung của ông bà nội bạn thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của ông nội bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất (gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của ông nội bạn). Bố bạn là một trong những người thừa kế của ông nội bạn, tháng 9/2012 bố bạn mất nên mẹ và 4 chị em bạn là những người thừa kế của bố bạn có quyền tiếp tục quản lý sử dụng nhà đất từ đó.

    Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về Thời hiệu khởi kiện về thừa kế: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Như vậy, thời hiệu khởi kiện để mẹ hoặc 4 chị em bạn yêu cầu chia thừa kết di sản của ông nội bạn đã hết nên mẹ con bạn không còn quyền khởi kiện.

    Tuy nhiên, bạn không nói rõ về việc thửa đất trên của ông bà nội bạn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở chưa? nếu đã được cấp thì cấp vào thời điểm nào, cấp cho ai? Bạn hãy cũng cấp thêm thông tin, Luật sư sẽ tư vấn thêm cho bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 03:56:32 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Việc anh A đã lấy đi hợp đồng mà Công ty đã ký với chủ đầu tư thì bạn có thể liên hệ với chủ đầu tư để đề nghị cấp bản sao hợp đồng.

    Đối với trường hợp phiếu thu anh A đã thu không có dấu Công ty nhưng nội dung thu tiền nằm trong giao dịch giữa Công ty và khách hàng.

    Để làm rõ mục đích anh A lấy hợp đồng mà Công ty đã ký với chủ đầu tư, tự ý thu tiền khách hàng, sử dụng phiếu thu và hành vi của anh A, bạn có thể trình báo hành vi trên với Cơ quan điều tra, cơ quan điều tra sẽ xác minh và xử lý.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 12:13:52 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.

    Trường hợp di chúc do bà bạn để lại di sản cho 1 con gái và 2 cháu gái thừa kế quyền sử dụng đất nhưng không phân định rõ vị trí phần quyền sử dụng đất của mỗi người được hưởng và được hưởng diện tích là bao nhiêu mà chỉ di chúc cho 03 người hưởng di sản thì trong trường hợp này các đồng thừa kế sẽ dễ nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc. Theo quan điểm của Luật sư, di sản sẽ được chia đều thành 03 phần giá trị quyền sử dụng đất bằng nhau.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 11:51:57 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Bạn chưa nói rõ việc cha và các cô chú bạn lập văn bản thỏa thuận về phần di sản cha bạn được hưởng hay đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn. Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn theo 02 trường hợp như sau:

    1. Trường hợp thỏa thuận về phần di sản cha bạn được hưởng:

    Năm 1988 cha bạn tổ chức họp họ tộc và lập biên bản phân chia tài sản của ông bà để lại, văn bản được những người thừa kế và những người trong họ tộc ký tên làm chứng. Về bản chất, văn bản mà cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của ông bà bạn, văn bản này đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

    Theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

     a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

     a. 1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

     a. 2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

     a. 3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".

    Như vậy, theo viện dẫn tại tiết a.2 điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì cha và các cô chú bạn đã thỏa thuận về phần cha bạn được hưởng, đến nay cha bạn mất, những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn (theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự) được kế thừa quyền và nghĩa vụ dân sự, có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia tài sản chung theo văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của ông bà bạn.

    2. Trường hợp đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn:

    Năm 1988 cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã có hiệu lực pháp luật, phần quyền sử dụng đất theo thỏa thuận đã thuộc về cha bạn, đến nay cha bạn mất nên di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn (theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự).

    Chị em bạn muốn lấy lại được mảnh đất trên hay không còn tùy thuộc vào việc cung cấp chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.

    Rất tiếc, Luật sư chưa được nghiên cứu hồ sơ để tư vấn cụ thể hơn cho bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    16/07/2013, 03:41:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Sau khi chuyển nhượng, ngân hàng nhận chuyển nhượng kế thừa quyền, nghĩa vụ của ngân hàng chuyển nhượng và trở thành một bên trong quan hệ tín dụng với gia đình bạn. Đến nay, ngân hàng không tìm thấy sổ đỏ, gia đình bạn muốn xin cấp sổ đỏ mới phải thanh toán các khoản nợ với ngân hàng để được xác nhận không còn nợ ngân hàng rồi thực hiện thủ tục đăng ký xóa thế chấp và xin cấp sổ đỏ mới.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    16/07/2013, 03:29:11 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, luật sư tư vấn như sau:

    Quá trình thi công xong, lợi dụng uy tín của Công ty, anh A tự ý thu mấy trăm triệu tiền khách hàng mà không nộp về Công ty. Trong trường hợp này, anh A đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều140 Bộ Luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    "1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".

    Để lấy lại số tiền, công ty cần trình báo cơ quan công an về hành vi của nhân viên trên và cung cấp những giấy tờ sau: Hợp đồng lao động; Giấy tờ chứng minh anh A được giao công việc làm nhân viên kinh doanh quan hệ khách hàng; Bản sao Hợp đồng đã ký với chủ đầu tư; Phiếu thu tiền của khách hàng. Trong quá trình giải quyết, tùy theo tính chất mức độ của hành vi phạm tội, anh A sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ dân sự trả lại tài sản cho người bị hại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 04:41:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo khoản 1 Điều 6 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định về Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự như sau: "Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp".

    Như vậy, để giữ lại phần đất trên, ông nội bạn phải đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn liên quan đến yêu cầu của chú 9, cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh thửa đất tranh chấp do ông nội bạn nhận chuyển nhượng, ông nội bạn chưa chuyển quyền sử dụng đất cho chú 9, đề nghị Tòa án buộc chú 9 trả lại thửa đất cho ông nội bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 10:55:40 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo Điều 151 Bộ Luật Hình sự quy định về Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình như sau: "Người nào ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm".

    Như vậy, trong trường hợp có chứng cứ chứng minh việc anh trai bạn ngược đãi má của bạn thì bạn có thể trình báo cơ quan công an xử lý. Tùy theo tính chất mức độ và hành vi của anh trai bạn, Cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc hành chính.

    Thân!

     

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 10:25:19 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào chị!

    Liên quan đến thửa đất 39,8 m2, chị thứ ba đã được mẹ chị chia đất, Nhà nước đã công nhận và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị ba rồi, con của anh hai chị muốn đòi quyền sử dụng đất thì phải có căn cứ để chứng minh là đất của anh hai chị. Trong trường hợp con của anh hai chị có tranh chấp quyền sử dụng đất với chị ba thì đại diện của chị ba có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Thân mến!

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 09:53:42 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết. Trường hợp cha bạn đã mất, di chúc do cha bạn để lại có chữ ký của mẹ bạn được xác định là di chúc chung của cha mẹ bạn thì di chúc có hiệu lực từ thời điểm mẹ bạn mất. Như vậy, bạn chưa đủ điều kiện để thực hiện việc sang tên căn nhà cho bạn được.

    2. Cha bạn đã mất, phần di sản của cha bạn để lại cho bạn thừa kế đã có hiệu lực pháp luật, phần tài sản của mẹ bạn chưa phát sinh hiệu lực pháp luật về thừa kế.

    Theo Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về việc Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng như sau:

    "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.

    2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình".

    Như vậy, mẹ bạn có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mẹ bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    11/07/2013, 11:54:19 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Căn cứ quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

     a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

     a. 1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

     a. 2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

     a. 3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".

    Như vậy, theo quy định tại tiết a.3 điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình nêu trên thì chỉ cần các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Việc thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia có thể được thể hiện lời nói hoặc bằng văn bản trong quá trình giải quyết vụ án. Để làm rõ vấn đề này, trong quá trình giải quyết thì Tòa án lấy lời khai của đương sự, tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau. Vì vậy, khi có đơn khởi kiện của đương sự yêu cầu chia tài sản chung thì Tòa án phải có trách nhiệm thụ lý vụ án trên của bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    11/07/2013, 11:15:21 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp mẹ bạn mua căn hộ sau khi bố bạn mất thì căn hộ là tài sản riêng của mẹ bạn, mẹ bạn có thể tặng cho riêng bạn căn hộ mà không cần phải có chữ ký của các anh chị em bạn.

    Thủ tục tặng cho căn hộ, bạn cần chuẩn bị những giấy tờ sau: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng tử của bố bạn, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của mẹ bạn, Giấy khai sinh của bạn (để không phải nộp thuế), Chứng minh nhân dân + Hộ khẩu (bản sao) của mẹ bạn và bạn.

    Sau khi chuẩn bị những giấy tờ trên, bạn và mẹ bạn đến Văn phòng công chứng để lập Hợp đồng tặng cho nhà ở, kê khai thuế TNCN, kê khai lệ phí trước bạ và nộp tại Văn phòng đăng ký nhà đất cùng các giấy tờ nêu trên.

    Chúc thành công!

     

  • Xem thêm     

    10/07/2013, 12:09:52 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp việc gây tai nạn giao thông do lỗi của người điều khiển xe ô tô buýt thì trách nhiệm của công ty vận tải hành khách và người lái xe buýt như sau:

    1. Theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau: “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

    2. Ngoài việc người lái xe buýt phải chịu trách nhiệm hình sự, người lái xe buýt còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại về tính mạng và sức khỏe cho người bị hại:

    Theo Điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm như sau:

    "1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

    Theo Điều 610 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:

    "1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

    Như vậy, người lái xe buýt phải bồi thường về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho Anh Lý Văn B, chị Nguyễn Thị Th, bồi thường về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm cho cháu Lý Sinh H và các chi phí khác theo quy định tại khoản 1 Điều 609 và khoản 1 Điều 610 Bộ Luật Dân sự năm 2005.

    3. Khi xảy ra tại nạn giao thông thì công ty vận tải hành khách có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người lái xe buýt có nghĩa vụ hoàn trả cho công ty một khoản theo quy định của pháp luật.

    Theo Điều 618 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra như sau: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật".

    Thân!

  • Xem thêm     

    10/07/2013, 10:36:53 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Nguyễn Đức Long - Văn phòng luật sư Đức Tín thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    1. Theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

     a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

     a. 1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

     a. 2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

     a. 3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".

    Như vậy, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án phân chia tài sản chung không bảo đảm đúng các điều kiện quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình nêu trên là có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

    2. Việc triệu tập đương sự đến Tòa án để làm việc phải có giấy triệu tập, trường hợp Tòa án không gửi giấy triệu tập cho bạn mà thực hiện cách thức khác thì bạn không phải đến Tòa án.

    3. Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2010/STDS ngày 17/09/2010 của TAND huyện Đồng Văn và Bản án DS phúc thẩm số 12/2010/PT-DS ngày 21/12/2010 của TAND tỉnh Hà Giang có được coi là việc giải quyêt tranh chấp về thừa kế hay không phụ thuộc vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

    Rất tiếc, Luật sư chưa được nghiên cứu hồ sơ vụ án để tư vấn cụ thể hơn cho bạn phần này. Nếu cần, bạn có thể hỏi tiếp.

    Thân!

  • Xem thêm     

    10/07/2013, 10:16:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp bạn không trộm cắp 12 triệu, người bị mất tiền đã đến cơ quan điều tra tố cáo bạn trộm cắp tài sản mà không có căn cứ thì người này đã có hành vi vu khống được quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự về tội vu khống.

    Tại cơ quan điều tra, bạn nên viết đơn tường trình nội dung sự việc, có lời khai theo đúng sự thật khách quan của vụ án. Quá trình điều tra, xác minh xét thấy bạn không có hành vi trộm cắp tài sản, cơ quan điều tra họ sẽ không có căn cứ khởi tố bạn.

    Thân!

21 Trang «<6789101112>»