Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Đức Long - luatsuduclong

21 Trang «<15161718192021>
  • Xem thêm     

    29/12/2012, 09:52:02 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể khởi kiện để yêu cầu người thừa kế của người hàng xóm vay tiền của bạn thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại, tức là thanh toán khoản nợ của người đó cho bạn.

    Theo quy định tại Điều 637 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:

    "1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.

    3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân".

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/12/2012, 09:24:11 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp tôi tư vấn như sau:

    Để xác định một người có vi phạm pháp luật hình sự với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không căn cứ vào hành vi phạm tội của họ chứ không phải căn cứ vào nội dung họ viết "nếu không hoàn trả số tiền thì là chiếm đoạt tài sản", mà việc chưa có tiền trả thì chỉ là quan hệ dân sự. Trừ trường hợp bạn em có hành vi sau:

         Người vay sử dụng số tiền vay của bạn vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ hoặc dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền của bạn thì họ mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/12/2012, 09:01:04 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo Điều 179 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định về Thời hạn chuẩn bị xét xử như sau:

    1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:

    a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 (Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai) và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

    b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

    Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

    2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định sau đây:

    a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;

    b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;

    c) Đình chỉ giải quyết vụ án;

    d) Đưa vụ án ra xét xử.

    3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.

    Như vậy, với thời hạn gần 20 tháng mà Toà án vẫn chưa giải quyết xong một vụ án dân sự nêu trên đã vi phạm tố tụng. Bạn có thể khiếu nại hành vi trong tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/12/2012, 07:27:56 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào ông!

    1. Di sản dùng vào việc thờ cúng được xác định trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 670 Bộ Luật dân sự năm 2005:

    "Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

    Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.

    Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật".

    2. Ngôi nhà gần 200 tuổi của gia đình ông về thực tế là di sản dùng vào việc thờ cúng nhưng về mặt pháp lý không được coi là di sản dùng vào việc thờ cúng vì không bảo đảm điều kiện nêu trên.

    3. Đối với phần di sản của bố ông để lại thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án chia thừa kế đã hết, người nào đang quản lý thì có quyền tiếp tục quản lý nhà đất đó theo quy định của pháp luật.

    Tuy nhiên, phần di sản của bố ông để lại có thể chuyển thành tài sản chung của các thừa kế và được chia, nếu đủ điều kiện theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

    a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

    a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

    a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

    a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".

    4. Cha mẹ ông kết hôn dưới chế độ phong kiến, về nguyên tắc thì nhà đất trên là tài sản chung của cha và mẹ ruột của ông, mẹ ông có 50% khối tài sản này, mẹ ông chết trước cha ông (trước năm 1980) nên phần di sản của mẹ ruột ông thuộc về những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất (bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của mẹ ruột ông). Vì vậy, phần di sản của mẹ ruột ông là tài sản chung của ông và những người thừa kế, ông có thể khởi kiện để đòi lại tài sản này.

    Theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:

    "b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".

    Chúc ông đạt được nguyện vọng!

     

  • Xem thêm     

    28/12/2012, 11:35:09 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào ông!

    Thời hiệu khởi kiện để chia thừa kế đã hết

  • Xem thêm     

    28/12/2012, 09:53:10 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại Luật Đầu tư năm 2005:

    * Khoản 2 Điều 45 quy định về Thủ tục đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư trong nước:

    "2. Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ mười lăm tỷ đồng Việt Nam đến dưới ba trăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh".

    * Khoản 1 Điều 46 quy định về Thủ tục đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài:

    "1. Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới ba trăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư".

    * Điều 50 quy định về Thủ tục đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế:

    "1. Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

    2. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam nếu có dự án đầu tư mới thì được làm thủ tục thực hiện dự án đầu tư đó mà không nhất thiết phải thành lập tổ chức kinh tế mới.

    3. Nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật này".

    Như vậy, trường hợp doanh nghiệp bạn dự định thành lập để thực hiện dự án đầu tư có vốn điều lệ 30 tỷ đồng thì tiến hành thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư gắn với thành lập doanh nghiệp tại Sở Kế hoạch Đầu tư.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    28/12/2012, 09:45:05 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    - Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật để người chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp về tài sản tin mà giao tài sản cho người phạm tội và chiếm đoạt tài sản đó theo quy định tại Điều 139 BLHS.

    - Nếu người đó sử dụng số tiền vay của bạn vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ hoặc dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền của bạn thì họ mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

    - Trường hợp người đó vay tiền để mua bán xuất đầu tư của 01 tổ chức nước ngoài nơi làm việc, đã trả được 78 triệu đến nay chưa có tiền trả thì chỉ là quan hệ dân sự, bạn muốn đòi lại tiền thì có thể khởi kiện bằng một vụ án dân sự để Tòa án giải quyết.

    - Thẩm quyền của Toà án:

    Khoản 3 Điều 25 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2011 quy định về Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: "Tranh chấp về hợp đồng dân sự".

    Điểm a khoản 1 Điều 33 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2011 quy định về Thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: "Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này".

    Điểm a khoản 1 Điều 35 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2011 quy định về Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: "Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này".

    Như vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể nộp đơn khởi kiện tại Toà án cấp quận huyện nơi bị đơn cư trú.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    28/12/2012, 12:49:36 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Theo khoản 2 Điều 29 Luật đất đai năm 2003 quy định:

    “Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

    Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động tự ý xây dựng, đầu tư bất động sản trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trường hợp có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất phải thu hồi mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.”

    - Trường hợp này, đất đã bị quy hoạch nhưng nhà nước chưa thu hồi thì chỉ có thể tiếp tục sử dụng đất trong quy hoạch khi chưa bị thu hồi đất theo đúng mục đích sử dụng trước khi công bố quy hoạch. Pháp luật trong trường hợp này nghiêm cấm việc tự ý xây dựng nhà để ở.

    - Theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp nếu đất chưa có quyết định thu hồi, có nghĩa là người sử dụng đất đang có quyền sử dụng đất hợp pháp thửa đất này thì có thể chuyển nhượng cho người khác.

    2. Theo khoản 1 Điều 106 Luật đất đai 2003 thì người sử dụng đất được thực hiện việc chuyển nhượng đất khi có các điều kiện sau:

    a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất.”

    Như vậy, cho dù người sử dụng đất không thể xây dựng nhà để ở nhưng có thể thực hiện quyền chuyển nhượng đất của mình nếu có đủ điều kiện chuyển nhượng theo các quy định của pháp luật.

    Thân!

  • Xem thêm     

    27/12/2012, 03:57:19 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Các cô chú bạn không có quyền tước quyền thừa kế của bố bạn. Đối với việc khởi kiện một vụ án dân sự, nguyên đơn có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, bị đơn cũng vậy.

    Như tôi đã tư vấn cho bạn lần trước, các cô chú của bạn có căn cứ chứng minh bố bạn thuộc 01 trong 02 trong trường hợp sau đây thì bố bạn sẽ mất quyền thừa kế:

    1. Trước khi bà bạn mất, bà đã có văn bản truất quyền hưởng di sản của bố bạn.

    2. Bố bạn là người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ bà của bạn, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của bà bạn; Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng bà của bạn; Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng một trong những người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản bà của bạn trong việc lập di chúc; Giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của bà bạn.

    (Bố của bạn có hành vi ở trường hợp 2 vẫn được hưởng di sản, nếu bà của bạn đã biết hành vi đó, nhưng vẫn cho bố bạn hưởng di sản theo di chúc).

    Để biết thêm chi tiết, bạn hãy liên hệ qua điện thoại, tôi sẽ tư vấn cụ thể cho bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    27/12/2012, 03:04:39 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Điều 247. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu:

    "1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này".

    Theo khoản 1 Điều  247 Bộ luật dân sự năm 2005, thời hiệu hưởng quyền dân sự, cụ thể là quyền được xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản (trừ trường hợp tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước) có những điều kiện nhất định:

    - Việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu chỉ đối với trường hợp chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật (không phù hợp với quy định tại Điều 183 Bộ luật dân sự năm 2005).

    - Việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng người chiếm hữu phải ngay tình. Có nghĩa là người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.

    - Người chiếm hữu phải chiếm hữu liên tục, việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó.

    - Người chiếm hữu phải chiếm hữu công khai, người chiếm hữu thực hiện việc chiếm hữu một cách không giấu diếm. Tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.

    - Về thời gian, việc chiếm hữu với các đặc điểm trên phải được thực hiện trong khoảng thời gian từ 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản.

    Trên đây là quan điểm, giải thích của tôi. Mong được chia sẻ.

    Thân!

  • Xem thêm     

    27/12/2012, 12:09:58 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp của gia đình bạn, các cô chú bạn muốn khởi kiện bố bạn để truất quyền hưởng di sản của người thừa kế hoặc xác định bố bạn là người không được quyền hưởng di sản, nếu các cô chú bạn có căn cứ và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    * Theo quy định tại Điều 643 Bộ Luật dân sự năm 2005 về người không được quyền hưởng di sản:

    "1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

    a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

    b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

    c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

    d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

    2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc".

    * Theo quy định tại khoản 1 Điều 648 Bộ Luật dân sự năm 2005 về quyền của người lập di chúc:

    "Người lập di chúc có các quyền sau đây: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế".

    Trong trường hợp này gia đình bạn nên hoà giải, thương lượng để đạt được mục đích. Nếu không thương lượng được thì các cô chú bạn phải có căn cứ chứng minh hành vi của bố bạn thì Toà án mới chấp thuận.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    26/12/2012, 02:44:22 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào Ông!

    1. Theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết02/2004/NQ-HĐTP, điều 36 pháp lệnh thừa kế năm 1990, và điểm b mục 10 nghị quyết02/1990/NQ-HĐTP thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong trường hợp này đã hết.

    Tuy nhiên, theo tiết 2.4 điểm 2 mục I nghị quyết02/2004/NQ-HĐTP thì ngôi nhà và thửa đất này có thể xem là tài sản chung của các người con của cha ông, nếu:

    - Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế;

    - Hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia. Khi ấy gia đình ông có thể khởi kiện yêu cầu tòa án chia tài sản chung.

    Theo thông tin ông cung cấp, cha của ông mất năm 1980, từ đó đến nay vợ chồng người em trai út của ông quản lý ngôi nhà và thửa đất.

    Theo khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự, nếu gia đình cậu của bạn chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 30 năm thì trở thành người có quyền sử dụng đất hợp pháp.

    2. Ngôi nhà và thửa đất là tài sản chung của các thừa kế, UBND huyện căn cứ vào quá trình sử dụng nhà đất của vợ chồng người em trai út mà cấp GCNQSDĐ là trái pháp luật.

    Ông có thể khiếu nại việc cấp GCNQSDĐ đến Chủ tịch UBND huyện để xem xét lại trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận. Đồng thời gửi đơn đến Thanh tra huyện để xem xét, nếu có căn cứ việc cấp giấy chứng nhận là trái pháp luật thì quyết định cấp giấy chứng nhận sẽ bị hủy bỏ.

    Ông hoặc những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp, hủy quyết định cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng người em trai út. Thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày ông biết về quyết định đó theo quy định về thời hiệu khởi kiện tại điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính.

    Chúc ông thành công!

  • Xem thêm     

    26/12/2012, 02:30:13 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào chị!

    Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa  thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa  thuận khác.

    Như vậy, trường hợp con của chị mới 34 tháng tuổi thì không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hơn hay không, về nguyên tắc chị là người được giao trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    26/12/2012, 11:31:08 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Công ty TNHH 1 TV đã đăng ký vốn điều lệ 1,5 tỷ VNĐ, đến nay muốn đưa xe tải Ben góp vốn làm tài sản của công ty thì nên tiến hành thủ tục thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp để tăng vốn điều lệ Công ty.

    2. Thành phần hồ sơ và thủ tục:

    Gửi Thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp về việc tăng vốn điều lệ bao gồm những nội dung:

    - Vốn điều lệ đã đăng ký và vốn điều lệ dự định thay đổi;

    - Thời điểm và hình thức tăng vốn.

    3. Sau khi thực hiện thủ tục đăng ký tăng vốn điều lệ bạn phải đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty.

    Điều 29 Luật Doanh nghiệp quy định về Chuyển quyền sở hữu tài sản:

    1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây:

    a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;

    b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.

    Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo uỷ quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty;

    c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.

    2. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    25/12/2012, 03:26:51 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Việc thừa kế quyền sử dụng đất căn cứ vào nội dung di chúc theo thông tin bạn cung cấp có hiệu lực hay bị vô hiệu một phần còn tuỳ thuộc vào nguồn gốc căn nhà.

    Trường hợp căn nhà là tài sản riêng của ba anh A thì ba anh A lập di chúc để lại di sản thừa kế cho mẹ anh A và 5 người con thành 06 phần bằng nhau là hợp pháp.

    Trường hợp căn nhà là tài sản chung do ba mẹ anh A tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì di chúc trên bị vô hiệu một phần. Bởi vì 50% căn nhà thuộc quyền sở hữu của mẹ anh A nên 50% căn nhà còn lại thuộc về những người thừa kế theo di chúc gồm mẹ của anh A và 05 người còn lại, mỗi người được hưởng 1/6 di sản thừa kế.

    Muốn giải quyết dứt điểm để chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu toàn bộ phần tài sản là phần nhà đất của mẹ anh A cho anh A thì phải tiến hành thủ tục phân chia di sản thừa kế nhà của ba anh A, đồng thời thực hiện thủ tục chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng, quyền sở hữu phần của mẹ anh A cho anh A.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    19/12/2012, 06:35:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Tài sản do bố mẹ bạn tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của bố mẹ bạn. Dù bạn là người thành niên cũng không có quyền yêu cầu chia khối tài sản này mà việc chuyển giao cho bạn quyền sở hữu, quyền sử dụng phải bằng một giao dịch dân sự (tặng, cho, mua, bán, chuyển nhượng ...).

    Theo Điều 181 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về quyền tài sản như sau: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ".

    2. Đối với tài sản của hộ gia đình bạn thuộc sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác. mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung.

    Theo Điều 224 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung như sau:

    "Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.

    Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán".

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/11/2012, 10:35:14 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Năm 2010 bạn đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh B rồi, việc chuyển nhượng đã hoàn tất. Từ thời điểm này anh B là chủ sử dụng đất, kế thừa quyền và nghĩa vụ liên quan đến thửa đất. Vì vậy, năm 2011 Nhà nước mở rộng lộ giới và đền bù hoặc hỗ trợ liên quan đến thửa đất trên thì anh B là người được hưởng khoản tiền đó.

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/11/2012, 10:15:43 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Thủ tục để thành lập công ty cổ phần như sau:

    * Hồ sơ:

    - Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp;

    - Dự thảo điều lệ công ty;

    - Danh sách cổ đông sáng lập;

    - Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân của cổ đông sáng lập, người đại diện theo pháp luật.

    * Thủ tục hành chính:

    Nộp hồ sơ tại Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh.

    2. Cá nhân nước ngoài góp vốn thành lập công ty cổ phần ở Việt Nam:

    Theo khoản 1 Điều 50 Luật đầu tư quy định về Thủ tục đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế như sau:

    "Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh".

    Để tiện cho việc đăng ký kinh doanh, cô của bạn nên xin cấp lại những giấy tờ thể hiện là công dân Việt Nam.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    17/11/2012, 05:03:43 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự nhưng xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

    Theo Điều 192 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự số 65/2011/QH12 quy định về Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như sau:

    1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự các trường hợp sau đây:

    a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;

    b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;

    c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

    d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;

    đ) Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án;

    e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng;

    g) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;

    h) Thời hiệu khởi kiện đã hết;

    i) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;

    k) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    2. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu có yêu cầu”.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/11/2012, 04:39:34 CH | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Một cổ đông có thể uỷ quyền cho một cổ đông khác tham dự cuộc họp đại hội đồng cổ đông, ký các giấy tờ liên quan, hưởng cổ tức và được quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến số cổ phần đó.

    Tuy nhiên, trường hợp này về nguyên tắc cổ đông uỷ quyền chưa chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong phạm vi số cổ phần có trong công ty.

    Thân!

21 Trang «<15161718192021>