Chào bạn! Vấn đề của bạn mình có suy nghĩ như sau:
Theo quy định tại điều 163 BLDS năm 2015 “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”
Theo khoản 13 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”
Mặt khác, theo quy định tại điều 35 Luật Doanh nghiệp 2014 về tài sản góp vốn thì “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam”
Theo đó thì giấy nhận nợ là một văn bản ghi nhận một quyền tài sản, nói cách khác giấy nhận nợ cũng là một loại tài sản. Do đó, việc góp vốn bằng giấy xác nhận nợ hoàn toàn hợp pháp.
Bên cạnh đó, căn cứ điều 37 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về định giá tài sản góp vốn:
“1. Tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng Việt Nam.
2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hạp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.
Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận.”
Khi các thành viên, cổ đông chấp nhận việc góp vốn bằng giấy nhận nợ thì rủi do có thể xảy ra. Do vậy, các thành viên, cổ đông phải liên đới chịu trách nhiệm đối với phần vốn góp mà các thành viên đã định giá tại thời điểm định giá.
Lê Thương | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM http: //vietkimlaw.com/
M: 01663040444 – E: Lethuong1903@gmail.com Ad: Tầng 6, Lya Building, 24/12 Đào Tấn, Ba Đình, Hà Nội