Chào bạn và Luật sư!
Tôi nghĩ chắc Luật sư đọc sai câu hỏi hoặc có chút nhầm lẫn về mặt khách quan trong CTTP của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Vì hành vi bỏ trốn là dấu hiệu khách quan trong CTTP của tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS:
"Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản"
Xin trả lời câu hỏi của bạn: những tình tiết bạn đưa ra còn thiếu nên trong trường hợp này có hai cách giải quyết:
Thứ nhất: bạn sẽ khởi kiện ra Tòa giải quyết theo vụ án dân sự để đòi nợ vốn gốc và lãi.
Thứ hai: nếu bạn có cơ sở chứng minh được từ những hành vi,ý chí chủ quan của ông A có ý thức chiếm đoạt tài sản của bạn thì bạn có thể viết đơn thư tố cáo gửi cơ quan công an về hành vi của ông A. Tuy nhiên để truy tố ông A theo tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì còn dựa vào kết luận điều tra của cơ quan công an.
Như tôi nói rõ các dữ kiện còn chưa rõ nên để giải quyết triệt để vấn đề bạn nên đến gặp và trình bày trực tiếp với luật sư để giải quyết sự việc được nhanh chóng.
Chúc bạn thành công!