Chào bạn! Luật sư Phạm Thành Tài đã trả lời bạn, tôi bổ sung như sau:
1. Nếu Cơ quan tố tụng chứng minh được mục đích lùi xe của lái xe là giết hại nạn nhân thì lái xe sẽ bị xử lý về hai tội là Tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS và Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như Luật sư Tài đã trích dẫn.
2. Ngoài trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự nêu trên, chủ xe (hoặc lái xe) còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và hướng dẫn tại mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/6006 của HDDTP TAND tối cao, cụ thể như sau:
"
II.
Xác định thiệt hại
1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện
đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các
thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm,
mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí;
tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị
thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho
người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt
giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay
thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại (nếu có).
1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu
trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do
sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ
bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định
từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ
nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng
tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy
mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả
các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác
định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực
tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và
chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 609 BLDS.
b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại
được thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có
được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác
định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập
thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu
nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức
khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường
hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế
của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600
ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị
công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu
nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả
đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không
bị mất.
1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa
phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc
cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu
của cơ sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị được xác định như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền
lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương,
tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt
hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu
nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình
của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi
người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác
định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm
việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền
công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn
tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được
cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định
của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và
do đó không được bồi thường.
1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả
năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng
và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm
khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý
cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp
lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp
lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được
tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa
phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt
hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.
1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.
a) Khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho
chính người bị thiệt hại.
b) Trong
mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b
tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh
thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn
cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia
đình và cá nhân…
c)
Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại
trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào
mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu
do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
2.1. Chi
phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập
thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn
tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
2.2. Chi
phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng
cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các
khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ
chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây
mộ, bốc mộ...
2.3.
Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng trước khi chết.
a) Chỉ
xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ
cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp
dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà
người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị
thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền
cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi
thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.
Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.
b)
Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.
- Vợ hoặc
chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được
chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Con
chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không
có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ
là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là
người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc
chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là
người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con
chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt
hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Em chưa
thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha
mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con
được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh,
chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành
niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng;
- Cháu
chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có
tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà
ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng;
- Ông bà
nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình
và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông
bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.
a) Người
được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị
thiệt hại.
b)
Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2
này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà
người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại.
c) Trong
mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng
thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và
người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người
thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I
Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân
thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải
căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc
sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…
d) Mức
bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên
thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải
căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ,
nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời
điểm giải quyết bồi thường”.