Năm 2003, Cty Cổ phần Chữ thập đỏ Việt Nam (Vinareco) ký Hợp đồng nhập khẩu thuốc từ Hãng Khoa học công nghệ dược phẩm Polysan (Cộng hòa Liên bang Nga), nhưng Bộ Y tế chưa cấp VISA. Năm 2004, Vinareco nhập và tiêu thụ tại Việt Nam 284.300 USD; ngày 15/3/2005, nhập 269.286 USD. Nhận rõ năng lực tài chính và uy tín gây dựng thị trường của Vinareco, ngày 14/6/2005, Polysan có văn bản trao quyền cho Vinareco là “Nhà phân phối duy nhất” sản phẩm của Hãng tại Việt Nam, không ghi thời hạn (được hiểu là lâu dài). Năm 2006, Polysan ra điều kiện: Vinareco phải nhập 1 triệu USD thuốc theo quy trình đàm phán của hai bên; theo đó, Polysan soạn thảo Bản Thoả thuận trao cho Vinareco trước để tham khảo: Nếu Vinareco bảo đảm tiêu thụ 1 triệu USD sản phẩm thì sang năm 2007, Polysan sẽ dành cho Vinareco quyền bán sản phẩm Hãng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Hợp đồng mua bán năm 2006 được ký và Vinareco đã thanh toán tiền hàng với Polysan (thực hiện gần 100% giá trị hợp đồng). Năm 2007, Văn phòng đại diện Polysan tại Hà Nội gửi Vinareco Bản Thoả thuận (dự thảo) ra điều kiện tiếp: Vinareco phải mua của họ 1,2 triệu USD; Vinareco đề nghị chỉ tăng 12%, tức bằng 1 triệu 116.000 USD, được Polysan đồng ý. Trên cơ sở đó, hai bên đã ký Bản Thoả thuận năm 2007 (bằng Bản tiếng Nga): Nếu Vinareco bảo đảm tiêu thụ sản phẩm Cycloferon và Reamberin năm 2007 là 1 triệu 111.619,84 USD thì Polysan sẵn sàng dành quyền cho Vinareco bán sản phẩm của mình “trên toàn lãnh thổ Việt Nam năm 2008”. Căn cứ thoả thuận này, hai bên đã ký Hợp đồng mua bán năm 2007.
Nhưng, ngày 1/3/2008, Polysan đã vi phạm cam kết, có “Giấy ủy quyền” ủy quyền cho Cty cổ phần dược phẩm Thanh Phương là “nhà phân phối duy nhất”các sản phẩm Cycloferon và Reamberin của Hãng “tại miền Trung và miền Nam trong năm 2008”. Phát hiện việc làm của Polysan trong quá trình thực hiện hợp đồng là không trung thực, thiếu tinh thần hợp tác, gây thiệt hại cho mình, Vinareco đã khởi kiện đối tác ra Trung tâm Trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại? Phán quyết của Trọng tài thương mại có hiệu lực pháp lý ra sao? Nếu một bên không đồng ý thì “phản đối” bằng cách nào? Các loại chế tài trong thương mại?
Theo quan điểm của tôi:
1. Trong giao dịch dân sự, Pháp luật Việt Nam yêu cầu các bên tham gia phải tôn trọng nguyên tắc thực hiện hợp đồng là: “Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau” (Điều 412 Bộ Luật Dân sự).
2. Theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại, tranh chấp trong thương mại được giải quyết bằng thương lượng, hoà giải hay giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Trong vụ này, do không thương lượng hoặc hoà giải được, Vinareco đã lựa chọn giải quyết bằng Trọng tài.
3. Điều 6 Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định: “Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp Toà án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp lệnh này”. Pháp lệnh còn quy định, nếu một bên không tự nguyện thi hành quyết định của trọng tài, cũng không yêu cầu huỷ thì “bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định”.
4. Nếu một bên không đồng ý với quyết định của Trọng tài thương mại thì có thể yêu cầu Toà án cấp tỉnh huỷ quyết định trọng tài; nhưng, bên yêu cầu phải đưa ra một trong những căn cứ quy định tại Điều 54 của Pháp lệnh, như phải chứng minh được “trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên…”, hoặc “Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của CHXHCN Việt Nam”…
Trong trường hợp Hội đồng xét xử huỷ quyết định của Trọng tài thương mại, nếu không có thoả thuận khác, các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Toà án.
Quyết định Trọng tài thương mại được thi hành kể từ ngày quyết định của Toà án “không huỷ quyết định trọng tài” có hiệu lực.
5. Các loại chế tài trong thương mại được quy định tại điều 292 Luật Thương mại: Buộc thực hiện đúng hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Huỷ bỏ hợp đồng; Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế./.
(Bài đăng trên Báo Thanh tra, số 3/2009)
(Luật gia, Nhà báo Nguyễn Chấn - Chuyên viên cao cấp tại Hãng Văn phòng Luật NewVision)