Tình huống đặt ra là công ty có thuê lao động thời vụ dưới 3 tháng với cá nhân cư trú. Công nhân này làm việc cứ một tuần thì công ty thanh toán lương một lần, mỗi lần là dưới 2.000.000 đồng, trong tháng thanh toán 4 lần. Vậy việc công ty không trích lại 10% Thuế TNCN như vậy có đúng không?
Phương pháp khấu trừ thuế TNCN khi ký hợp đồng lao động
- Đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần, kể cả trường hợp cá nhân ký hợp đồng từ ba (03) tháng trở lên tại nhiều nơi.
- Đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên nhưng nghỉ làm trước khi kết thúc hợp đồng lao động thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập vẫn thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần.
- Đối với cá nhân là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập căn cứ vào thời gian làm việc tại Việt Nam của người nộp thuế ghi trên Hợp đồng hoặc văn bản cử sang làm việc tại Việt Nam để tạm khấu trừ thuế theo Biểu lũy tiến từng phần (đối với cá nhân có thời gian làm việc tại Việt Nam từ 183 ngày trong năm tính thuế) hoặc theo Biểu thuế toàn phần (đối với cá nhân có thời gian làm việc tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế).
- Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Căn cứ theo các quy định, có thể hiểu đơn giản rằng phương pháp khấu trừ thuế sẽ phụ thuộc vào thời hạn hợp đồng lao động đã ký. Nếu ký hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên thì áp dụng phương pháp khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần. Còn nếu ký hợp đồng lao động dưới ba tháng mà có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập.
Có khấu trừ thuế TNCN khi trả dưới 2 triệu nhiều lần trong tháng?
Có thể nhận thấy theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì việc khấu trừ 10% thuế TNCN áp dụng khi có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên. Câu từ của văn bản xác định theo lần chi trả, vậy đơn vị chia ra nhiều lần để chi trả dưới 2 triệu có được không? Vấn đề này trước đây đã được Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn tại Công văn 9611/CT-TTHT năm 2013 về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế do Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh ban hành nêu như sau:
- Trường hợp Công ty ký hợp đồng theo mùa vụ với người lao động dưới 3 tháng, thanh toán lương theo tuần với mức chi trả dưới 2.000.000 đồng/lần thì vào mỗi lần chi trả (thấp hơn 2.000.000 đồng/lần) Công ty tạm thời không phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi chi trả cho người lao động, nhưng đến cuối tháng Công ty tổng hợp thu nhập đã chi trả cho từng cá nhân trong tháng, tính và kê khai nộp thuế TNCN (theo mức 10%) đối với những cá nhân có tổng thu nhập từ 2.000.000 đồng trở lên.
- Trường hợp Công ty ký hợp đồng theo mùa vụ với người lao động dưới 3 tháng nhưng trong năm tài chính Công ty ký nhiều lần không liên tục (chỉ ký khi có nhu cầu), cả năm cá nhân đó có tổng thời gian lao động tại đơn vị từ 3 tháng đến dưới 12 tháng thì Công ty thực hiện tạm khấu trừ thuế của cá nhân theo Biểu thuế lũy tiến từng phần tính trên thu nhập tháng. Người lao động thực hiện đăng ký người phụ thuộc, giảm trừ gia cảnh theo quy định.
Theo hướng dẫn thứ nhất ở trên của công văn thì trường hợp trong tháng đơn vị trả nhiều lần với mức chi trả dưới 2.000.000 đồng/lần, Công ty tạm thời không phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi chi trả cho người lao động. Tuy nhiên, nếu tổng thu nhập trong tháng của người lao động lớn hơn 2 triệu thì công ty phải tính tổng lại và tính và kê khai nộp thuế TNCN (theo mức 10%) đối với những cá nhân có tổng thu nhập từ 2.000.000 đồng trở lên.
Tuy nhiên, trên chỉ là công văn chứ không phải văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm không hướng dẫn chi tiết như trên nên để chắc chắn thì đơn vị vẫn phải trao đổi thêm với cơ quan thuế để được hỗ trợ chính xác nhất.