Hiện nay pháp luật không có quy định về loại hợp đồng cộng tác viên. Tùy thuộc vào nội dung của hợp đồng mà sẽ xác định bản chất của hợp đồng này là hợp đồng lao động hay hợp đồng dịch vụ.
Thông thường, hợp đồng cộng tác viên thường sẽ được xác định có bản chất là hợp đồng dịch vụ (một loại hợp đồng dân sự). Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Khi là hợp đồng dịch vụ thì sẽ không tính thuế thu nhập cá nhân theo Biểu thuế lũy tiến từng phần mà tổ chức trả thu nhập (trong trường hợp của bạn là ngân hàng) sẽ thực hiện khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả thu nhập cho cá nhân có thu nhập vì trường hợp này được xem là làm việc không ký hợp đồng lao động.
Theo quy định hiện hành, khi tổ chức trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Trong trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ 10% nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế và cá nhân đó có làm cam kết (theo mẫu 02/CK-TNCN) gửi tổ chức trả thu nhập thì tổ chức trả thu nhập sẽ tạm thời chưa khấu trừ thuế của cá nhân.
Về việc khấu trừ trên từng lần trả hay khấu trừ trên tổng thu nhập của 01 tháng: Theo quy định hiện nay thì mặc định sẽ khấu trừ trên từng lần trả thu nhập. Tuy nhiên, nếu từng lần trả dưới 2.000.000 đồng nhưng cộng lại tất cả các lần đã trả trong tháng mà từ 2.000.000 đồng trở lên thì vẫn sẽ phải khấu trừ.
Về việc cấp chứng từ khấu trừ thuế, nếu cá nhân có thu nhập không có yêu cầu thì tổ chức trả thu nhập sẽ không bắt buộc phải cấp chứng từ khấu trừ thuế cho cá nhân đó.