Câu hỏi:
Tôi đã kết hôn được 7 năm, tôi mang thai cháu đầu tiên do bất cẩn nên tôi bị sẩy thai. Đến khi tôi kết hôn được 5 năm nhưng tôi không thể mang thai lần thứ 2, nhà chồng tôi lạnh nhạt với tôi. Trong thời gian đó chồng tôi đã cặp bồ bây giờ tôi đã về nhà bố mẹ để để chữa bệnh và tôi biết chồng tôi mới lấy vợ, có tổ chức đám cưới trong khi đó vợ chồng tôi chưa ly hôn như vậy thì tôi phải làm thế nào.
Trả lời:
Chào bạn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến công ty Luật NewVision. Đối với trường hợp của bạn chúng tôi xin được đưa ra quan điểm của mình tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 03/01/2001 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về những trường hợp sau đây được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ, chồng:
– Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
– Việc họ chung sống với nhau được (một bên hay cả hai bên) gia đình chấp nhân;
– Việc họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
– Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Từ quy định trên, nếu bạn và chồng bạn vẫn chưa tiến hành thủ tục ly hôn mà chồng bạn có hành vi vi phạm như trên thì bạn có thể liên hệ với Ủy ban nhân dân phường, xã nơi bạn cư trú để được can thiệp giúp đỡ.
Căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình quy định hành vi người đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ, chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì bị xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt phạt tiền từ 100.000 đến 500.000 ngàn đồng.
Ngoài ra theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã như sau:
Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định về ly hôn
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
Nếu nghiêm trọng hơn bạn còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự như sau:
Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Theo điểm a, khoản 2 Điều 10 Luật HNGĐ năm 2014 quy định về người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật:
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;
Như vậy bạn và chồng bạn chưa ly hôn mà chồng bạn đã kết hôn với người khác thì bạn có thể yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật. Toà án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn.
Trân trọng!