Chào bạn, theo ý kiến cá nhân của mình thì theo khoản 1 Điều 51 Luật Công chứng năm 2014
Điều 51. Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch
1. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó.
Theo mình chưa có luật cụ thể điều chỉnh việc không ký hủy hợp đồng thì hậu quả pháp lý là gì, nhưng có thể thấy để hủy bỏ hợp đồng đã được công chứng thì cần phải có mặt của các bên đã tham gia hợp đồng trước đó thì chủ nhà của bạn yêu cầu bạn đi ký giấy hủy hợp đồng thì cũng có thể là vì lý do trên.
Ngoài ra, hợp đồng thuê nhà là thỏa thuận của hai bên và việc chấm dứt hợp đồng sẽ dựa vào các điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận, và việc bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng thì cũng căn cứ theo trách nhiệm bồi thường nếu có trong hợp đồng, nếu không có thì bồi thường hợp đồng theo bộ luật dân sự
Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh Covid nên theo điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bạn có thỏa thuận lại với chủ nhà để đưa ra phương án tốt nhất cho cả hai bên.
Điều 427. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng
1. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.
2. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.
Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.
Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường.
4. Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này và luật khác có liên quan quy định.
5. Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
Cập nhật bởi Hong312 ngày 26/05/2021 11:24:26 CH