Bài 14.
Ông A, bà H kết hôn năm 2002 và có một con chung là M ( sinh tháng 08. 2005 ). “Tâm đầu ý hợp” được vài năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè. Tháng 12. 2005, ông A bỏ nhà đi không một lời giải thích, mặc bà H một mình bươn chãi nuôi con. Tháng 12. 2006, ông A lại quay về với ý muốn đoàn tụ để nuôi dạy con chung nhưng bà H nhất quyết xin ly hôn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tài sản chung hai bên khai thống nhất gồm 1 xe Wave, 1 xưởng dệt, căn nhà chung vợ chồng đang cư ngụ … với tổng trị giá hơn 900 triệu đồng. Ngoài ra, ông A còn khai vợ chồng họ nợ bà D, người ngụ ở địa phương khác 256 triệu đồng ( giấy nhận tiền do ông ký tên được lập tháng 03/2006 ). Theo ông A thì số tiền này ông vay để làm ăn hầu kiếm tiền phụ giúp bà H nuôi con nhưng không may việc làm ăn bị thất bại. Bà H không thừa nhận khoản nợ này vì ông A vay bà không hề biết.
Trên cơ sở tranh chấp cùng với việc nhận định khoản nợ 256 triệu do ông A vay năm 2006 là nợ chung vì được lập trong thời kỳ hôn nhân, bản án sơ thẩm số 06/HNST ngày 16.05.2007 của TAND quận Q đã quyết định: i) Về hôn nhân: Bà H được ly hôn với ông A; ii) Về con chung: Giao cháu M, sinh năm 2004 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 400.000/tháng; iii) Về tài sản: Chia đôi giá trị khối tài sản chung hiện có đồng thời buộc ông A và bà H phải liên đới trả cho bà D 256 triệu đồng ( mỗi người trả một nữa số nợ - tính cả gốc lẫn lãi ).
Theo anh ( chị ), phán quyết sơ thẩm của Tòa án quận Q hợp lý không ? Tại sao? Cách giải quyết cụ thể của anh chị?