Hi.
Theo mình thì trường hợp này A phải
chịu trách nhiệm hình sự rồi. Vì hành vi của A đã có đủ các dầu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản - Điều 138 Bộ Luật hình sự. tuy nhiên áp dụng luật nào thì còn phải xem A phạm tội trong thời gian nào - bởi những quy định của BLHS 1999 và luật mới sửa đổi 2009 có sự khác nhau về giá trị tài sản bị chiếm doạt , nếu bài tập không ra thời gian mà là bài tập gần đây thầy cho thì luật áp dụng là BLHS (sửa đổi bổ sung 2009).
Chủ thể phạm tội: A (27 tuổi) người bình thường.
Khách thể: quyền sở hữu khối tài sản trị giá 60 triệu đồng
Mặt khách quan;
- hành vi: A đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản - hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.
- hậu quả: quyền sở hữu khối tài sản trị giá 60 triệu đồng của chủ tài sản bị xâm hại mà hành vi của A chính là nguyên nhân.
Mặt chủ quan:
A thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý . lối cố ý ( quy định tại Điều 9 BLHS 2009). trường hợp này A có thể có nhiều lí do mà phạm tội như thiếu tiền xài...để có tiền A hoàn toàn có nhiều lựa chọn chính đáng như đi làm thêm chẳng hạn nhưng không A đã lựa chọn hành vi sai trái trong khi có đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho người khác.
A đã 27 tuổi và là người hoàn toàn bình thường mà theo quy định tại Điều 12 BLHS 2009 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi tội phạm. Do đó A phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp của mình theo khoản 2 Điều 138 BLHS 2009 .
- "......Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
- ........e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng"
- Ngoài ra,người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.