Căn cứ Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc hủy hợp đồng như sau:
- Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:
+ Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
+ Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
+ Trường hợp khác do luật quy định.
- Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
- Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Bên cạnh đó theo Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm như sau:
- Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
+ Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
+ Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
+ Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
+ Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
- Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
Căn cứ Điều 292 Luật Thương mại 2005 quy định về các loại chế tài thương mại như sau:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phạt vi phạm.
- Buộc bồi thường thiệt hại.
- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Như vậy, khi người bán giao hàng trước thời hạn một khoảng thời gian không hợp lý (không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm) người mua có thể nhận hoặc không nhận hàng hóa. Tuy nhiên, để làm căn cứ hủy hợp đồng thì hành vi trên phải đáp ứng các điều kiện theo luật định. Trong trường hợp người mua nhận hàng đi cùng chế tài thì việc thực hiện chế tài trên là do các bên tự thỏa thuận.