Chào bạn, rất cảm ơn câu hỏi của bạn.
Về những thắc mắc của bạn, dựa trên những thông tin mà bạn cung cấp, tôi xin đóng góp một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, về hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 600m2 giữa anh A và chị B.
Điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai 2003 quy định “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.”
Tuy nhiên, theo điểm b.3 khoản 2.3 Mục II của Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa công chứng, chứng thực nếu có các điều kiện dưới đây vẫn được công nhận là hợp đồng có hiệu lực.
“b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.”
Như vậy, theo những gì bạn đã cung cấp anh A đã ở ổn định từ lâu và không vi phạm hành chính đối với mảnh đất này, đồng thời có xây dựng nhà trên 300m2 đất, còn 300m2 đất còn lại để trống. Chị B cũng không hề phản đối hay có bất kỳ ý kiến nào khi anh tiến hành xây dựng trong suốt thời gian từ năm 2003 đến năm 2016. Vậy nên, theo Nghị quyết hướng dẫn thi hành nói trên, Tòa án sẽ công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 300m2 đất có xây dựng nhà ở và hủy phần hợp đồng đối với 300m2 đất còn lại của anh A. Anh A sẽ phải trả lại mảnh đất cho chị B (do hợp đồng đối với phần đất này vô hiệu nên hai bên sẽ trao trả lại cho nhau những gì đã nhận như tình trạng ban đầu). Trên thực tế, để có thể chứng minh việc sử dụng lâu năm mà không có tranh chấp hay không có vi phạm hành chính gì để được tòa án công nhận, anh A có thể đưa ra giấy tờ chứng minh về việc nộp thuế đất hàng năm (biên lai nộp thuế), giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy khai sinh có ghi địa chỉ của nhà ở liên quan đến thửa đất;…
Thứ hai, về mảnh đất A dùng đổi ngang với chị B và 12 triệu tiền mặt kèm theo
Như thông tin bạn đã cung cấp, thửa đất đổi ngang của anh A cho chị B cùng số tiền 12 triệu đều không có giấy tờ giao nhận cũng như không có bất cứ chứng cứ nào chứng minh rằng anh A đã trao cho chị B. Vì thế, khả năng cao số tiền 12 triệu anh sẽ không được nhận lại. Thửa đất với quyền sử dụng thuộc về anh do không có bất cứ giấy tờ chuyển nhượng nào cho chị B nên anh cũng khó có thể đòi lại. Bởi vì theo thông tin bạn đưa ra, tôi cũng không rõ anh A có những giấy tờ gì để chứng minh thửa đất là của mình, cùng với đó, thửa đất đã được chuyển cho chị C từ rất lâu, có thể chị C đã xây nhà và ở đó lâu năm. Việc kiện đòi lại thửa đất này cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Dựa trên những thông tin bạn cung cấp, tôi chỉ có thể tư vấn cho bạn như vậy. Theo ý kiến cá nhân tôi, đây là một vụ tranh chấp tương đối phức tạp và còn có nhiều vấn đề nên để nhận được những tư vấn chính xác và đầy đủ hơn, bạn vui lòng liên hệ với luật sư để có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của anh A.
Trân trọng.
Chuyên viên tư vấn: Trịnh Thủy Tiên
BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT DÂN SỰ | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM
M: (+84-4) 32.123.124; (+84-4) 32.899.888 - E: cle.vietkimlaw@gmail.com; luatvietkim@gmail.com - W: www.vietkimlaw.com
Ad: Trụ sở chính - Tầng 5, Tòa nhà SHB, 34 Giang Văn Minh, Ba Đình, HN | VPGD - Tầng 5, Nhà C, 236 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN.