Theo quan điểm của mình, hành vi của A phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự 2015.
Mình sẽ phân tích cấu thành tội phạm của tội này như sau:
Về chủ thể: Theo quy định tại điều 12 Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm là người trên 16 tuổi.
Về khách thể: Quan hệ sở hữu.
A có hành vi chiếm đoạt xe máy là tài sản của B, tức là đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản.
Về mặt khách quan:
- Hành vi: Do đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh…
Tính chất công khai trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan, nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản, nếu chiếm đoạt tài sản một cách lén lút mà người quản lý tài sản không biết là hành vi trộm cắp. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.
Trong tình huống trên, A đã có thủ đoạn lợi dụng lúc B đang bận việc trong nhà, sẵn chìa khóa đang cắm ở cổ xe để chiếm đoạt chiếc xe máy. Khi bị B phát hiện, A vẫn ngang nhiên rồ ga chạy, tức công nhiên chiếm đoạt chiếc xe máy trước mặt B là chủ sở hữu.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự 2015, giá trị tài sản bị chiếm đoạt của tội này từ 2 triệu đồng trở lên, hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp tại khoản 1 điều 172.
Về mặt chủ quan: lỗi cố ý
Ngoài ra, tùy thuộc vào tỷ lệ tổn thương cơ thể của B mà A có thể phạm thêm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo điều 134 Bộ luật hình sự.
Cập nhật bởi thanhtamlkt ngày 16/10/2017 09:57:47 CH