Chào bạn ! Đối với vấn đề của bạn Luật sư xin được tư vấn như sau:
1, Trường hợp 1: A đã vi phạm luật hình sự, cụ thể là Điều 139 BLHS tội lừu đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi lẽ hành vi của A đã đủ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Mặt chủ thể: A đủ năng lực TNHS
Mặt khách thể: A xâm phạm quyền sử dụng diện tích đất trên của B
Mặt khách quan: A đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích mà thực tế đã bán và bàn giao cho B sang C. toàn bộ số tiền bán được A là người sở hữu. Điều này đã vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của B.
Mặt chủ thể: A cố ý thực hiện hành vi này với mục đích chiếm đoạt giá trị quyền sử dụng đất trên.
2. trường hợp 2: A không vi phạm pháp luật hình sự mà chỉ vi phạm về hợp đồng dân sự. Bởi lẽ: hành vi của A bán tài sản cho B, C, D, E nhưng việc bàn giao đất và giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất chưa thực hiện (đây là nghĩa vụ hợp đồng) A lại tiếp tục thực hiện thế chấp tại ngân hàng vay 100.000.000 . thực tế quyền sử dụng đất vẫn thuộc quyền sử dụng của A chưa chuyển giao cho B,C,D,E nên chưa thuộc quyền sở hữu của B,C,D,E nên B,C,D cho rằng A lừa đảo chiếm đoạt tài sản là không có căn cứ.
Để được tư vấn chi tiết xin liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH VILOB NAM LONG chuyên:
- Tư vấn doanh nghiệp
- Tư vấn sở hữu trí tuệ
- Tư vấn đầu tư
Website: www.nllaw.vn
Địa chỉ : Tầng 11, Tòa B, Vinaconex Building, Số 57 Vũ Trọng Phụng, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: 02432 060 333
Hotline: 0914 66 86 85 hoặc 0989.888.227
Email: namlonglaw@gmail.com