Ủy quyền là quan hệ phát sinh thường xuyên trong đời sống xã hội. Hiện nay, quan hệ này được điều chỉnh bởi các quy định về đại diện theo ủy quền trong Bộ luật dân sự 2005 (BLDS). Để xác lập quan hệ ủy quyền, trong nhiều trường hợp pháp luật bắt buộc phải có sự công chứng, chứng thực của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền mới có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy rằng nhiều người dân gặp phải quá nhiều rắc rối khi đến cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền vì mỗi nơi hiểu và giải thích cho người dân một cách rất khác nhau. Chúng tôi nêu dưới đây một số vướng mắc về mặt pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về vấn đề ủy quyền.
Hình thức đại diện bằng Giấy ủy quyền
Theo quy định tại khoản 3, Điều 139 #5c7996;">Bộ luật dân sự 2005 thì ủy quyền là một trong hai dạng xác lập quan hệ đại diện (dạng còn lại là đại diện theo pháp luật). Từ khái niệm “đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (khoản 1, Điều 139 BLDS), có thể hiểu rằng ủy quyền là việc một người giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho mình.
Về hình thức của ủy quyền, theo khoản 2, Điều 142 BLDS thì “Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”. Trong đời sống có thể thấy nhiều quan hệ ủy quyền được xác lập hàng ngày mà không cần phải bằng văn bản, có thể bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, thực tế cũng chỉ ra rằng, hầu như không có sự ủy quyền nào thể hiện bằng lời nói, hành vi được thừa nhận để có giá trị chứng minh trong việc các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, quan hệ ủy quyền thường xuyên vẫn được xác lập bằng văn bản bởi hai hình thức là Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền.
Có thể hiểu, Giấy ủy quyền là một hình thức đại diện ủy quyền do chủ thể bằng hành vi pháp lý đơn phương thực hiện, trong đó ghi nhận việc người ủy quyền chỉ định người được ủy quyền đại diện mình thực hiện một hoặc nhiều công việc trong phạm vi quy định tại Giấy ủy quyền.
Tuy nhiên, khác với Hợp đồng ủy quyền được quy định cụ thể và định nghĩa rõ ràng (Mục 12 Chương XVIII BLDS), Giấy ủy quyền lâu nay chỉ được thừa nhận mà chưa có quy định cụ thể định nghĩa. Xét về hình thức nó là một loại “giấy tờ” “văn bản”; về bản chất nó là một giao dich dân sự. Bởi vì, theo quy định tại Điều 121, BLDS thì “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Việc lập Giấy ủy quyền thể hiện đầy đủ đặc tính của giao dịch dân sự được định nghĩa ở trên.
Giấy ủy quyền cơ quan nào chứng nhận?
Một vướng mắc pháp lý đặt ra là hiện nay chưa có quy định cụ thể để xác định cơ quan có thẩm quyền xác nhận Giấy ủy quyền. Trên thực tế, một số người dân khi đến để chứng thực chữ ký vào Giấy ủy quyền ở một số UBND xã, phường đã bị từ chối, còn một số phường, xã khác vẫn chứng thực chữ ký vào Giấy ủy quyền. Trong khi đó, các Phòng công chứng luôn nhận công chứng Giấy ủy quyền khi được yêu cầu.
Theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 5, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì UBND xã, phường, thị trấn (UBND cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt.
Trong khi đó, Luật Công chứng có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 quy định “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Đồng thời, căn cứ các văn bản nêu trên và Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Công văn số 1939/BTP-BTTP ngày 18/6/2009 của Bộ Tư pháp,
Như vậy, theo các quy định trên thì có thể hiểu các tổ chức hành nghề công chức có thẩm quyền công chứng Giấy ủy quyền bởi vì đó là một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, tại một số xã, phường nếu chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền với tính chất là chứng thực chữ ký trong các “văn bản”, “giấy tờ” thì vẫn phù hợp với quy định tại Nghị định #5c7996;">79/2007/NĐ-CP như đã viện dẫn.
Như vậy, cùng một Giấy ủy quyền nhưng nếu được chứng thực (chữ ký) thì giá trị pháp lý có gì khác với việc Giấy ủy quyền đó được công chứng (chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch)?
Chứng thực chữ ký thì người, cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc chứng thực có phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của (nội dung) Giấy ủy quyền hay không? Những vướng mắc đó chưa được giải quyết bằng các quy định cụ thể của pháp luật, nên trong nhiều trường hợp người dân không nắm rõ được rằng cùng một hành vi (viết Giấy ủy quyền), nhưng giá trị pháp lý như thế nào nếu được chứng thực hoặc công chứng.
Chính sự thiếu cụ thể, chi tiết cùng với cách hiểu, vận dụng không thống nhất như trên của các cơ quan có thẩm quyền đã dẫn đến việc người dân bị rối, không biết chọn cơ quan nào để chứng nhận. Đồng thời, họ cũng không rõ việc UBND cấp xã từ chối việc chứng thực chữ ký vào Giấy ủy quyền của họ là đúng hay sai.
Đòi hộ khẩu, tài liệu không có căn cứ!
Hiện nay,ở một số địa phương cán bộ tư pháp chỉ tiếp nhận hồ sơ chứng thực chữ ký cho các trường hợp người yêu cầu chứng thực có hộ khẩu thường trú tại địa bàn xã, phường. Trong khi đó, khoản 4, Điều 5, Nghị định số #5c7996;">79/2007/NĐ-CP quy định thẩm quyền chứng thực chữ ký của UBND cấp xã “không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực”.
Như vậy, pháp luật không yêu cầu người chứng thực bắt buộc phải có hộ khẩu thường trú tại UBND xã, phường nơi thực hiện việc chứng thực chữ ký. Việc từ chối chứng thực chữ ký cho người không có hộ khẩu thường trú như hiện nay ở nhiều UBND xã, phường là không đúng quy định.
Cũng liên quan đến đòi hỏi giấy tờ trong hồ sơ để chứng nhận Giấy ủy quyền, một số phòng công chứng yêu cầu người người đến xác nhận giấy ủy quyền tham gia tố tụng tại tòa án phải có giấy tờ thể hiện việc khởi kiện tại Tòa mới chứng nhận vào giấy ủy quyền.
Đây là đòi hỏi không có căn cứ pháp lý, bởi “giấy tờ thể hiện việc kiện” hoặc các giấy tờ xác nhận của tòa án về việc khởi kiện của một người chỉ có khi người đó đã thực hiện việc khởi kiện. Trong khi đó, tại Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Như vậy, nếu không tự mình khởi kiện vì lý do nào đó, thì người có quyền khởi kiện được ủy quyền cho người khác bằng Giấy ủy quyền để người này thay mặt tham gia tố tụng tại tòa án. Nếu đòi hỏi người ủy quyền phải cung cấp giấy tờ, tại liệu thể hiện việc kiện tại tòa án do tòa án thụ lý, xác nhận thì thật vô lý, bởi như thế thì người ủy quyền phải tự mình thực hiện việc khởi kiện mới có các loại giấy tờ nộp cho Phòng công chứng.
Như vậy, đòi hỏi của Phòng công chứng đã hạn chế, cản trở và gián tiếp tước mất quyền ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện, vốn là một quyền của người dân được quy định tại Điều 161 BLTTDS.
Như vậy, liên quan đến việc người dân thực hiện việc chứng thực (công chứng) Giấy ủy quyền, ngoài việc quy định của pháp luật vẫn chưa hoàn thiện như đã viện dẫn, ở một số cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực đã thực hiện không đúng các quy định của pháp luật khiến người dân gặp phải rắc rối, cản trở họ thực hiện quyền công dân được pháp luật thừa nhận.
Ths. Ls NGUYỄN VĂN PHƯỚC
(Văn phòng luật sư Huế, www.huelaw.com.vn)