Chính quyền không hiểu pháp luật hay cố tình hành dân ?

Chủ đề   RSS   
  • #208220 19/08/2012

    ls_nguyenthugiang

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:13/05/2008
    Tổng số bài viết (18)
    Số điểm: 95
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Chính quyền không hiểu pháp luật hay cố tình hành dân ?

    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    -----------

                                                  Quận 9, ngày 11 tháng 08 năm 2012

     

    ĐƠN KHIẾU NẠI BỔ SUNG , YÊU CẦU THU HỒI VÀ  HỦY BỎ GIẤY CHỨNG NHẬN QSH NHÀ Ở QSD ĐẤT Ở  DO UBNDQ9 CẤP NGÀY 05/03/2004 CHO BÀ NGUYỄN THỊ ĐÀ VÀ TRƯƠNG VĂN CHÂU.

     

             Kính gửi:  CHỦ TỊCH UBNDTPHCM

    Đồng kính gửi: Giám đốc Sở Tài Nguyên Và Môi Trường TPHCM

     

          Tôi tên là LÊ VĂN NGỜ  sinh năm 1950, hộ khẩu thường trú: 11/57 đường 100 khu phố 1, phường Tân Phú, Quận 9, TPHCM. CMND số : 021413831, CATPHCM cấp ngày 11/09/2003. Ngày 02 tháng 7 năm 2012 tôi có gửi đơn khiếu nại lần 2 đến Chủ tịch UBNDTPHCM. Nay tôi gửi đơn khiếu nại bổ sung, yêu cầu thu hồi và hủy bỏ GCN QSH nhà ở và QSD đất ở do UBNDQ9 TPHCM cấp ngày 05/03/2004 cho bà Nguyễn Thị Đà và Trương Văn Châu.

           Tôi xin trình bày như sau:

    I. Nguồn gốc nhà đất và sự gian dối, bất công:

             Như trong đơn khiếu nại tôi đã khẳng định nguồn gốc thửa đất số 113, tờ bản đồ số 09 TL02/CT-UB thuộc khuôn viên căn nhà số 11/57 đường 100 ( số cũ là 9/200 ) khu phố 1, phường Tân Phú do ông ngoại tôi là ông Nguyễn Văn Bùi và bà ngoại tôi là bà Lê Thị Chiến tạo lập. Ông ngoại tôi chết năm 1963. Bà ngoại tôi chết năm 1968. Sau khi bà ngoại tôi chết, mẹ tôi mới nhận thừa kế phần đất này. Cha tôi là ông Lê Văn Nghi tham gia cách mạng từ năm 1945, hy sinh năm 1950 được chứng nhận là Liệt sĩ. Sau khi cha tôi hy sinh,  năm 1954 mẹ tôi có quan hệ với ông Trương Văn Châu nhưng không sống chung, tức là ở riêng, nhà ai nấy ở ( ông Châu ở nhà số 27 ấp Cầu Xây cho đến chết, bà Đà ở nhà số 9/200, tức 11/57 cho đến chết ). Đến năm 1955 nghe tin mẹ tôi có bầu là ông Châu lánh mặt và bỏ đứa con rơi. Mẹ tôi sinh ra Nguyễn Văn Đực, em cùng mẹ khác cha với tôi. Kể từ đó mẹ tôi không còn quan hệ với ông Châu nữa và ông Châu cũng không nhìn Đực là con ( đến năm 1958 mới  làm khai sinh cho Đực, trễ 3 năm, bằng án thế vì khai sinh và phải lấy họ mẹ ). Năm 1976 mẹ tôi và tôi sửa nhà lại để ở. Trong tờ khai nguồn gốc đất năm 1999, mẹ tôi không khai tên ông Châu vào nguồn gốc tạo lập. Điều này đúng thực trạng, đạo lý và đúng pháp luật.

    Nhưng nay do sự “ hô biến” của ông Đực và sự trợ giúp của công chức phường và quận đã chuyển thành tài sản của ông Nguyễn Văn Đực. Đây là điều bất công, sai sự thật, trái pháp luật.

            Qua tìm hiểu tôi phát hiện những điều mờ ám có chủ mưu và thông đồng giữa công chức phường, quận với ông Đực nhằm làm sai lệch hồ sơ để ông Đực lấy hết tài sản. Bản trình bày của tôi gồm mấy nội dung như sau:

    II. Cố ý làm sai lệch hồ sơ của công chức phường và quận:

    1. Cố ý làm sai lệch hồ sơ của công chức phường Tân Phú:

         a).Ông Nguyễn Hữu Đạo, nhân viên địa chính phường Tân Phú tự ý ghi thêm tên ông Trương Văn Châu vào tờ đơn đề nghị cấp GCN ngày 20/7/2003 của mẹ tôi sau khi ông Nguyễn Văn Quên – quyền Chủ tịch UBND phường Tân Phú ký xác nhận và đóng dâu là sai quy định của pháp luật và  không có căn cứ với mục đích có lợi cho ông Đực.

         b).Mẹ tôi không biết chữ, đã già yếu, thời điểm này bà nằm liệt giường: đó là sự thật. Anh em tôi ai cũng thừa nhận điều đó. Thế nhưng các giấy tờ mẹ tôi khai và vẽ tên ( tôi nói vẽ chứ không phải ký ) và lăn tay đều không có người làm chứng…

          Cũng  cần nói thêm rằng ông Đực lén lút đưa mẹ tôi lên UBND phường để làm giấy tờ. Kẻ xấu, bọn gian tham thêm bớt nội dung gì mẹ tôi không thể biết. Thực tế đã thêm tên ông Trương Văn Châu và nói là chồng bà …

         c).Ông Đạo, nhân viên địa chính phường cùng ông Đực đánh tráo hồ sơ:

          Nhà đất của mẹ tôi và tôi tự xây dựng từ năm 1976 ( tại số 11/57 ) ông Đạo lại lấy đem hợp thức hóa cho nhà ông Đực xây năm 2002. Tôi nói rõ vấn đề này: Mẹ tôi có cho ông Đực 100 m2 đất trong khuôn viên nhà 11/57 ( đã có số nhà ) để xây dựng nhà ở, chính tôi cùng góp công, góp sức xây cho ông Đực năm 2002. Việc này ai cũng biết. Thế mà giấy tờ nhà ông Đực lại thể hiện nguồn gốc xây dựng từ năm 1976!? Sau này để có giấy tờ nhà, tôi phải làm hồ sơ xin cấp số nhà mới…có số 11/55 đường 100 ( theo QĐ số715/QĐ-UBND ngày 05/06/2006 của UBNDQ9 do ông Nguyễn Văn Đô đề nghị và cũng chính Nguyễn Văn Đô ký QĐ ???).

           Sau khi tôi nộp hồ sơ để làm giấy tờ nhà cho ông Đạo. Một thời gian sau khá lâu không thấy phường trả lời. Tôi hỏi ông Đạo hồ sơ nhà của tôi đến đâu rồi? Ông Đạo lúc nói hồ sơ của tôi bị thất lạc, lúc lại nói mẹ tôi bảo lấy để làm hợp thức hóa nhà cho ông Đực!!! Còn hỏi tại sao ông tự ý thêm tên ông Trương Văn Châu vào Đơn đề nghị của mẹ tôi ? Ông nói: “có vợ phải có chồng”, nói câu này không ăn nhập với nội dung tôi hỏi, mặc nhiên thừa nhận việc làm sai trái của ông. Tôi nói ông Đực là đứa con hoang thai của mẹ tôi, là con rơi không thừa nhận của ông Châu. Tức là cha mẹ của Đực không phải là vợ chồng. Cả chế độ cũ và bây giờ đều có chế định con ngoài giá thú, con rơi. Nghĩa là cha mẹ của chúng không phải là vợ chồng. Về vấn đề này tôi sẽ phân tích rõ ở phần sau.

          Từ những sai phạm nêu trên, tờ Đơn đề nghị ngày 20/7/2003 có dấu hiệu gian dối, không minh bạch, sai thực tế và sai quy định của pháp luật là không có giá trị, tôi yêu cầu phải hủy bỏ.

    2. UBND Quận 9 cấp GCN sai nguồn gốc và đối tượng.

          a).Trên cơ sở có tên ông Trương Văn Châu trong Đơn đề nghị cấp GCN do ông Đạo ghi thêm, ông Nguyễn Văn Đô, ngày 05/03/2004 thay mặt UBNDQ9 ký GCN QSH nhà ở và QSD đất ở cho mẹ tôi và ông Châu. Mặc dù tờ Đơn đề nghị có kẻ gian ghi thêm tên ông Châu nhưng cũng chưa đủ pháp lý để ghi tên ông Châu vào GCN. Bởi vì tờ đơn mẹ tôi đã nói rõ nguồn gốc đất của ông bà để lại, mẹ tôi hưởng thừa kế. Giả dụ ( tôi nói giả dụ ) ông Châu có đúng là chồng của mẹ tôi cũng không thể đương nhiên được thừa hưởng di sản thừa kế của ông bà tôi để lại - vì là rễ. Ngoài ra mẹ tôi còn khai thêm từ năm 1976 tôi tự xây cất… chứ bà không khai vợ chồng tôi xây cất. Lợi dụng chỗ không biết chữ và thiếu hiểu biết về pháp luật của mẹ tôi, ông Đạo ghi thêm vào tờ Đơn để nghị của mẹ tôi: ông Châu là chồng và sau đó tại tờ Đơn xin xác nhận sống chung cũng với cách làm sai trái này mà ra…

       b) Lập luận của UBND Quận cảm tính, sai quy định của pháp luật.

           Trong quyết định giải quyết khiếu nại số168/QĐ-UBND ngày 18/6/2012 của Chủ tịch UBNDQ9 có mấy điểm sai:

         1 -QĐ 168 nói: Theo tường trình của bà Nguyễn Thị Đà có nguồn gốc như sau: “ Đất do ông Nguyễn Văn Bùi cho ông Trương Văn Châu và bà Nguyễn Thị Đà sử dụng vào năm 1963. Năm 1976 ông Châu và bà Đà xây dựng nhà ở. Năm 1986 ông Châu chết, bà Đà tiếp tục sử dụng”.

          Nội dung này hoàn toàn sai sự thật và sai cả nội dung trong đơn đề nghị. Trong Đơn đề nghị ngày 20/7/2003 bà Đà khai rõ: “ Đất do ông bà để lại là ông Nguyễn Văn Bùi ( chết năm 1963 để lại cho con là Nguyễn Thị Đà năm 1976 tôi tự xây dựng …”.  Thực tế bà Đà nhận phần di sản thừa kế này từ năm 1968 ( sau khi ông bà ngoại tôi chết - ông Bùi chết năm 1963, bà Chiến chết năm 1968 ). Năm 1976 bà Đà tự xây dựng… lúc này ông Bùi đã chết rồi.

          UBND quận lại nói ông Bùi cho ông Châu năm 1963 là sai sự thật, là nói bừa, không có căn cứ. Việc cho nhận phải có giấy tờ, hơn nữa ông Châu là người ngoài làm gì có chuyện cho nhận một cách khơi khơi như vậy? Chủ tịch UBNDQ 9 nói ông Bùi cho ông Châu thì phải chứng minh việc cho này.

          Mặt khác trong đơn bà Đà khai tôi tự xây dựng…, Chủ tịch UBND quận lại nói “ông Châu bà Đà xây dựng”. Nếu tờ đơn bà Đà nhận ông Châu là chồng và ghi thêm tên ông Châu vào thì phần khai : Nguồn gốc, quá trình sử dụng nhà, đất…. bà Đà cũng phải ghi vợ chồng tôi xây dựng mới khớp ( kẻ gian chỉ nhớ thêm phần trên, quên sửa nội dung khai ở phần dưới nên vẫn còn nội dung:  tôi tự xây dựng… Rõ ràng ý chí của bà Đà từ đầu đến cuối không hề có ông Châu.

          Nội dung khai trong Đơn đề nghị ngày 20/7/2003 của bà Đà là đúng thực tế là : Đất do bà hưởng thừa kế của cha mẹ rồi chính bà tự xây dựng. Cho nên nói đất do ông Bùi cho ông Châu và ông Châu cùng bà Đà xây dựng là hoàn toàn sai với nội dung trong tờ đơn đề nghị ngày 20/7/2003, là sai ý chí của bà Đà, sai sự thật, và làm lợi cho ông Đực…

         2 -Theo QĐ 168 của UBND Quận là: “Tại Đơn xin xác nhận sống chung, bà Đà xác định sống chung với ông Trương Văn Châu từ năm 1954 và do chiến tranh nên không làm giấy đăng ký kết hôn ( UBND phường Tân Phú xác nhận ngày 11/02/2004 )”.

          Sao Chủ tịch UBND Quận 9 lại có thể chấp nhận nội dung này một cách “ ngây thơ” đến như vậy?Cán bộ phường xác nhận sai thì quận phải chỉnh sửa lại, đằng này lấy đó làm lý do cho việc làm sai trái của mình!? Vấn đề này Chủ tịch quận do kém hiểu biết hay do kém đạo đức ? hay do cả hai?

          Việc xác định hai người là vợ chồng theo hôn nhân thực tế phải xuất phát từ ý chí của hai người. Đằng này ông Châu đã chết làm sao hiểu được ý chí của ổng!!! Không có giấy tờ gì chứng minh ( như cùng có tên trong sổ gia đình, sổ hộ khẩu, là cha mẹ trong khai sanh của con, cùng đứng tên trong tài sản tạo lập …) chỉ có lời khai vu vơ của người còn sống : nói là người nằm dưới mộ kia là chồng tôi. Thế mà cũng được công nhận và vợ chồng!?

           Chủ tịch UBNDQ 9 tài quá vì biết được cả ý chí của người chết, ông Châu nhận là chồng Bà Đà, sau khi ông chết 18 năm!? Xin thưa, trước đây, khi còn sống ông đã từ chối,  bỏ chạy, và Đực trở thành đứa con rơi của ông. Còn đổ cho chiến tranh là không đúng. Bởi vì từ năm 1954 đến năm 1960 vùng này chưa ảnh hưởng chiến tranh, bằng chứng là năm 1958 tòa vẫn tuyên án thế vì khai sinh ( trễ 3 năm) cho Đực mà, thì cũng có thể tuyên ông Châu, bà Đà là vợ chồng được nếu họ muốn.  UBND phường xác nhận một cách ẩu tả không đúng pháp luật, UBND quận cũng dốt không biết quy định của pháp luật, nên cũng chấp nhận sai…Nếu công nhận một cách dễ dàng như UBNDQ9, chắc nhiều người ở quận tự nhiên được giàu to, bằng cách: thấy người chết để lại nhiều tài  sản cứ nhận là chồng là vợ của mình để được hưởng di sản !!! ( Nên nhớ phải đến UBND phường Tân Phú và UBNDQ 9 xác nhận, mới được !!!).

        -Cũng cần nói thêm, ông Châu chết năm 1986, nếu khi còn sống ông Châu nhận là chồng và mẹ tôi là vợ, thì lúc ông ông chết, mẹ tôi được hưởng thừa kế của ổng. Nhưng vì chưa bao giờ ông nhận mẹ tôi là vợ, nên mẹ tôi cũng không thể khai nhận di sản thừa kế của ông.

        - Ngoài ra cũng cần lưu ý giữa ông Đạo và ông Đô có quan hệ bà con …, hai người này phối hợp nhịp nhàng, kẻ tung người hứng để làm theo yêu cầu của ông Đực.

        -Việc đứng đơn khai xin cấp GCN nhà, đất đang có người ở từ trước giải phóng đến nay ( trong đó có tôi, theo sổ gia đình năm 1973, sổ hộ khẩu 1976, 1982, ….) không thể bỏ qua ý kiến các thành viên trong hộ. Cụ thể là tôi có đóng góp xây nhà thì tôi phải có ý kiến đồng ý cho mẹ tôi đứng tên cùng với ông Châu hay không ? Vì biết tôi không bao giờ đồng ý cho ông Châu đứng tên nên ông Đực cùng với ông Đạo, ông Đô tiến hành một cách mờ ám và gian dối để cướp đoạt phần tài sản của tôi được hưởng.

          -Về pháp lý, dù có giấy Chứng nhận kết hôn, có con chung, có tài sản chung … nhưng do một người tự đi đăng ký kết hôn cũng không được công nhận là vợ chồng, tài sản tạo ra trong quá trình sống chung mang tên ai người đó hưởng, không được chia hai … Xin xem bài báo “Kháng nghị hủy bản án ly hôn có sai sót nghiêm trọng” của VKSND tối cao đăng tên báo Tuổi trẻ ngày 10/08/2012 ( đính kèm ).

         Từ những phân tích trên đây và từ Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm của VKSND tối cao nêu trên, càng khẳng định Giấy Chứng nhận QSH nhà ở và QSD đất ở do UBNDQ 9 cấp cho bà Nguyễn Thị Đà và ông Trương Văn Châu ngày 05/03/2004 là sai đối tượng, cần phải thu hồi và hủy bỏ.

    III. Tôi yêu cầu:

            1. Từ những phân tích, phát hiện những việc làm mờ ám, khuất tất, sai pháp luật của công chức phường và quận…dẫn đến việc UBNDQ 9 cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và QSD đất ở ngày 05/03/2004 cho bà Nguyễn Thị Đà và ông Nguyễn Văn Châu là sai đối tượng, phải bị thu hồi và hủy bỏ.

           Do đó tôi yêu cầu Chủ tịch UBNDTPHCM, Giám đốc Sở Tài Nguyên & Môi Trường  TPHCM, xem xét ra quyết định giải quyết khiếu nại của tôi theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tôi.    

           2. Ngoài ra tôi đề nghị xem xét xử lý trách nhiệm của ông Đạo nhân viên địa chính phường Tân Phú ( nay chuyển qua phường Tăng Nhơn Phú A ) vì đã tùy tiện ghi thêm vào Đơn đề nghị của mẹ tôi sau khi Quyền Chủ tịch phường Tân Phú ký tên đóng dấu và đánh tráo hồ sơ. Việc làm này là sai quy định của pháp luật, góp phần làm sai lệch hồ sơ, gây thiệt hại, khó khăn cho tôi. 

             Ông Đô ký GCN sai đối tượng, nhưng nay ông Đô đã chết nên tôi bỏ qua.

            3. Tôi kiến nghị xem xét tư cách của ông Nguyễn Văn Thành vì đã ký QĐ 168 có lập luận không đúng quy định của pháp luật, sai nội dung Đơn đề nghị của mẹ tôi. Trình độ pháp luật của ông Thành như thế càng làm khổ cho dân, ông Thành không thể làm Phó Chủ tịch UBND quận được.

          Tôi xin trân trọng kính chào.

                               

                                                                 Người ký đơn khiếu nại bổ sung

     

     

     

     

     

     

                                                                                   Lê Văn Ngờ

    Xem bài báo tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/506052/Khang-nghi-huy-ban-an-ly-hon-sai-sot-nghiem-trong.html

     

     

     

     

     


     

     

     

    Cập nhật bởi ls_nguyenthugiang ngày 19/08/2012 08:51:27 CH
     
    6247 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận

Chủ đề đã khép lại!